---------------------------------------------------------------------------------------------------------
LỜI GIỚI THIỆU
(cho bản tiếng Việt)
Từ lâu, thị trường cổ phiếu
đã nổi tiếng là mỏ vàng tiềm năng nhưng lại đầy rẫy rủi ro. Bước chân vào đó,
người ta có thể sau một phút đạt đến vinh quang tột đỉnh nhưng cũng có thể bị
rơi xuống tận đáy chỉ trong chớp mắt. Tham gia vào cuộc chơi ấy, chỉ thông minh
thôi chưa đủ. Một chiến thuật hợp lý, linh hoạt
theo biến động của thị trường và một tâm lý vững vàng là những điều tối cần thiết.
Song, có được những yếu tố
trên không phải là việc đơn giản. Đầu tư theo đám đông đồng nghĩa với nguy cơ rủi
ro cao và lợi nhuận thấp, nhưng hiện nay, có rất ít nhà đầu tư tránh được lối
mòn này. Họ dễ bị tác động và thường làm theo số đông; họ đầu tư ồ ạt theo trào
lưu và thiếu một chiến lược cụ thể cho riêng mình. Chính vì thế, họ thường chậm
chân trước những cơ hội nhãn tiền mà cổ phiếu đem lại hay khó thoát ra khi thị
trường biến động.
Vậy các nhà đầu tư phải
làm thế nào để chuyển từ thế bị động sang thế chủ động trên thị trường và đầu
tư thành công?
Đáp án duy nhất cho câu hỏi
trên là họ cần có một chiến sách mang đậm bản sắc riêng, được xây dựng dựa trên
một chiến lược cơ bản. Nói cách khác, nhà đầu tư không chỉ cần hiểu rõ bản thân
mình mà trước hết còn phải có kiến thức cơ bản về các phong cách đầu tư được
đúc kết từ kinh nghiệm thành công của các nhà đầu tư đi trước hay cùng thời.
Dưới ngòi bút của hai
chuyên gia đầu tư và tài chính lừng danh David Brown và Kassandra Bentley, Chiến
lược đầu tư chứng khoán do công ty Alphabooks mua bản quyền, dịch và xuất bản tại
Việt Nam có thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu này. Cuốn sách sẽ giúp bạn hiểu sâu sắc
những phong cách đầu tư phổ biến nhất trên thị trường hiện nay và có cái nhìn cận
cảnh về mọi ngóc ngách trên con đường tối đa hóa lợi nhuận: Làm thế nào để tìm ra phong cách đầu tư phù hợp nhất với
mình? Làm thế nào để chọn đúng cổ phiếu có tiềm năng lợi nhuận cao nhất theo
phong cách đó? Có thể làm gì để đầu tư an toàn hơn và sinh lợi hơn? v.v.
Không chỉ cung cấp vốn kiến
thức quý báu, giá trị của cuốn sách còn nằm ở những ví dụ sinh động, rất sát với
thực tiễn. Là một người hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực này, tôi thực sự tin
rằng, Chiến lược đầu tư chứng khoán là cuốn sách quý đối với tất cả những ai
quan tâm từ một nhà đầu tư đang băn khoăn lựa chọn hướng đi hay người mới chập
chững bước vào sân chơi đến những nhà đầu tư đã có kinh nghiệm và thành danh
trên thị trường.
Hà Nội, tháng 02/ 2008
HOÀNG ANH TUẤN
Chủ tịch
HĐQT/Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm qua,
chúng tôi đã viết sách và tổ chức rất nhiều buổi nói chuyện về các công cụ
trong đầu tư cổ phiếu. Mặc dù đánh giá rất cao những hoạt động này, song nhiều
độc giả thú nhận, họ không hiểu đâu là công dụng của các công cụ này.
Tình trạng này trở nên đặc
biệt nghiêm trọng khi thị trường khủng hoảng năm 2000. Trong thị trường đầu cơ
giá lên đang rất sôi động tại thời điểm đó, kiếm tiền không phải là việc khó. Tất
cả những gì cần làm chỉ là nắm giữ một cổ phiếu bất kỳ. Tuy nhiên, thị trường tụt
dốc nhanh để lại nhiều hậu quả và khiến các nhà đầu tư từ bỏ xu hướng đầu tư
theo ngày.
Nhiều nhà đầu
tư đã nghiên cứu và sử dụng thành thạo rất nhiều công cụ đầu tư nhưng lại không
hề có một chiến lược hay kế hoạch đầu tư cụ thể nào. Chính vì vậy, họ rất dễ
lúng túng và trở thành nạn nhân của thị trường.
Ý tưởng về cuốn sách này
xuất hiện khi chúng tôi nói chuyện với các nhà đầu tư nhiều năm thành công trên
thị trường. Khi đưa ra quyết định đầu tư, họ luôn tuân theo một kế hoạch hay
chiến lược cụ thể. Tác giả Jack Schwager đã đề cập đến vấn đề này trong Market
Wizard, một bộ sách gồm những bài phỏng vấn các nhà đầu tư và thương nhân thành
công nhất thế giới. Đồng quan điểm với chúng tôi, ông cho rằng các công cụ đầu
tư và việc tiếp cận thông tin là những yếu tố rất quan trọng, nhưng có một chiến
lược hay và các nguyên tắc để theo đuổi chiến lược mới là điều tối cần thiết để
đầu tư thành công.
Điểm then chốt là các
nguyên tắc theo đuổi chiến lược. Nhà đầu tư sẽ
không có nguyên tắc để theo đuổi và thực hiện hiệu quả, nếu chiến lược không
phù hợp với tính cách của họ.
Chẳng hạn,
một người thích mua cổ phiếu giá rẻ nhưng lại không thể kiên nhẫn chờ đợi thành
quả trong dài hạn thì người đó không thể là một nhà đầu tư giá trị giỏi, một trong bốn chiến lược đầu tư
chính được đề cập trong cuốn sách này.
Mục đích của cuốn sách
này là cung cấp cái nhìn tổng quan về các chiến lược đầu tư và những phẩm chất
cần có của một nhà đầu tư thành công. Trong cuốn sách này, chúng tôi không đưa
ra các chỉ dẫn hay công cụ cụ thể để “thu lợi trên thị trường cổ phiếu”, bởi vì
mục tiêu của chúng tôi là giúp các bạn tìm ra một chiến lược hay phong cách phù
hợp với tính cách của bạn và phác thảo quy trình thực hiện chiến lược đó. Chúng
tôi sẽ đạt được mục đích nếu sau khi đọc xong cuốn sách này, bạn có thể hình
dung rõ ràng về mẫu nhà đầu tư mà bạn có nhiều điểm tương đồng nhất và có khả
năng lựa chọn phong cách hay chiến lược đầu tư phù hợp. Một quy trình có phương
pháp là rất cần thiết để thực hiện chiến lược.
LỜI GIỚI THIỆU
Đâu là chiến lược đầu tư
của bạn? Bạn đầu tư cổ phiếu theo cách nào? Bạn có
làm theo lời khuyên của bạn bè hay của các nhà đầu tư cổ phiếu trên kênh truyền
hình Tin tức và Tài chính Thương mại CNBC không? Khi tìm thấy một cổ phiếu ưa
thích, bạn xác định thời điểm nên mua vào bằng cách nào? Nếu có lãi 20%, bạn có
bán cổ phiếu không? Bạn có mua thêm nếu nó giảm giá 50% không? Bạn nắm bao
nhiêu loại cổ phiếu cùng một lúc? Trong danh mục đầu tư của bạn, có bao nhiêu
phần trăm là dưới dạng tiền mặt? Khi nào bạn cần thay đổi tỷ lệ nắm giữ tiền mặt
này?
Các quyết định cho những
vấn đề nêu trên chính là những yếu tố tạo nên chiến lược đầu tư của bạn.
Một chiến
lược chỉ đơn giản là kế hoạch thực hiện một mục tiêu nào đó. Một huấn luyện viên bóng đá sẽ không
nghĩ đến trận đấu tiếp theo nếu chưa có một chiến thuật cụ thể. Một nhà chỉ huy
quân sự luôn phải vạch ra các chiến lược để giành thắng lợi trong cuộc chiến.
Liệu có ai khởi nghiệp mà không có một vài chiến lược trong tay? Ở mức tối thiểu,
bạn phải có một chiến lược về vốn, một chiến lược marketing sản phẩm và một chiến
lược phát triển sản phẩm cho doanh nghiệp mình.
Là một trong những hoạt động
quan trọng nhất trong cuộc sống, hoạt động đầu tư chắc chắn đòi hỏi phải có chiến
lược. Trước hết, chúng ta phải có chiến lược lựa chọn
cổ phiếu. Thứ hai là chiến lược mua vào và bán ra để biết thời điểm mua vào và
bán ra thích hợp nhất. Cuối cùng là chiến lược quản lý danh mục đầu tư.
Chiến lược này thể hiện tỷ lệ danh mục đầu tư dưới dạng tiền mặt và tỷ lệ cổ
phiếu; số lượng cổ phiếu hay quỹ; và mức độ đa dạng hóa trong mối tương quan giữa
các ngành công nghiệp và các khu vực của danh mục đó.
Tại sao chúng ta phải có
trong tay tất cả các chiến lược này? Bởi vì đầu tư không phụ thuộc vào trực
giác. Thực tế, nó hoàn toàn trái ngược với trực giác. Chẳng hạn, trực giác mách
bảo chúng ta hãy tránh xa thị trường đầu cơ giá xuống. Nhưng nếu tất cả cổ phiếu
đều có khuynh hướng hạ giá thì đó lại là thời điểm nên mua vào. Tại sao ư?
Nguyên nhân là khi thị trường xuống thấp cực điểm, tất cả mọi người đều có ý định
bán tháo cổ phiếu và thực tế, họ đã làm như vậy. Do đó, khả năng hồi phục lại của
thị trường rất lớn. Mọi chuyện cũng tương tự đối với thị trường đầu cơ giá lên ở
mức cực đại. Khi một người rửa ô tô nói chuyện về các giao dịch trong ngày, khi
chúng ta chứng kiến sự quan tâm dành cho một ngành kinh doanh lên đến đỉnh điểm,
đó chính là thời điểm nên bán ra.
Khi mọi người xung quanh
có vẻ như đang giàu lên nhờ thị trường, khi đó, Bạn có bán cổ phiếu đó đương
nhiên sẽ có một động lực thôi thúc bạn tham gia vào vòng xoáy làm giàu. Nhưng nếu
tất cả mọi người đều tham gia vào thị trường, thì thị trường sẽ trở nên bão hòa
và các khoản đầu tư thông minh dần mất đi.
Rất khó đoán biết được
khi nào thị trường đầu cơ giá xuống sẵn sàng hồi phục trở lại hoặc khi nào thị
trường đầu cơ giá lên chuẩn bị sụp đổ. Bởi vì, bạn không thể chỉ phán đoán dựa vào
trực giác và thiên hướng đầu tư của mình. Đương nhiên, bạn cũng không thể phán
đoán dựa vào cảm xúc. Thực tế, cảm xúc, đặc biệt là
nỗi sợ hãi khi thua lỗ hay niềm vui sướng quá mức khi thành công, là kẻ thù số
một của nhà đầu tư. Chúng ta rất dễ bị cảm xúc chi phối, nên nếu không có các
chiến lược và công cụ thích hợp nhằm hạn chế ảnh hưởng của cảm xúc, chúng ta sẽ
không thể trở thành nhà đầu tư thành công.
Một chiến lược đầu tư
thành công thể hiện ở sự gia tăng của các khoản lợi nhuận. Chúng tôi đã chứng
minh được rằng, nếu bạn sử dụng một chiến lược đầu tư có phương pháp và tuân thủ
theo các nguyên tắc thì lợi nhuận hàng năm của bạn có thể tăng gấp đôi so với
khi đầu tư tùy tiện. Việc tăng gấp đôi lợi nhuận cho thấy nhiều “điều kỳ diệu”
về tiền vốn của bạn.
Chẳng hạn, nếu bạn đầu tư
một khoản tiền tiết kiệm là 10.000 đô la với tỷ lệ tăng lợi nhuận là 5%, khoản
tiền của bạn sẽ tăng gấp đôi. Nhưng nếu tỷ lệ đó là 10%, số tiền đầu tư ban đầu
của bạn sẽ được nhân bốn trong một năm. Thậm chí, còn đáng ngạc nhiên hơn, khi
tỷ lệ tăng lợi nhuận gấp đôi lên là 20% thay vì 10%, số vốn đầu tư ban đầu của
bạn sẽ tăng gấp mười sáu lần trong một năm và gần bốn mươi lần trong hơn 20 năm
(xem Biểu đồ I.1).
Nhìn vào biểu đồ bạn có
thể thấy, mỗi điểm gia tăng thêm lợi nhuận đều có giá trị hơn nhiều so với một
điểm lợi nhuận riêng lẻ ban đầu. Do những điểm tăng thêm này rất mạnh, nên việc
bạn lựa chọn một phong cách đầu tư là rất cần thiết. Nó sẽ giúp bạn tránh việc
ra quyết định theo bản năng. Chiến lược lựa chọn thời điểm bán ra và mua vào rất
có ích vì chúng giúp tăng lợi nhuận khi bạn quyết định mua và bán một loại cổ
phiếu ở thời điểm thích hợp. Còn chiến lược quản lý danh mục đầu tư sẽ giúp bạn
trở thành nhà đầu tư tiên phong và thu được nhiều lợi nhuận nhất. Việc phát triển
và sử dụng các chiến lược này làm gia tăng đáng kể lợi nhuận của bạn trên thị
trường. Dù không khó và không đòi hỏi quá nhiều thời gian, nhưng khoảng thời
gian bạn bỏ ra để xây dựng các chiến lược sẽ vô cùng đáng giá.
Biểu đồ I.1
Với tỷ lệ tăng lợi nhuận
20%/năm, khoản đầu tư 10.000 đô la sẽ tăng lên 383.376 đô la trong hơn 20 năm.
Nếu bạn đã thực hiện một
chiến lược lựa chọn cổ phiếu, mua vào và bán ra, rồi thu được khoản lợi nhuận kếch
xù và cảm thấy hài lòng, thì bạn thật sự không cần đến cuốn sách này nữa. Nếu mọi
việc theo đúng nguyên tắc và phương pháp, chúng ta không cần phải lo lắng gì nữa.
Nhưng nếu bạn tùy tiện hoặc ngẫu nhiên lựa chọn cổ phiếu, nếu bạn mua và bán
chúng dựa trên cảm xúc nhiều hơn là tính toán, nếu bạn hoạt động không hiệu quả
trên thị trường
như bạn mong muốn, thì có
lẽ, bạn cần có một chiến lược đầu tư. Mục đích của cuốn sách này là giới thiệu
với bạn các chiến lược, phương pháp và phong cách đầu tư khác nhau, nhằm giúp bạn
có các quyết định phù hợp nhất với phẩm chất, tính cách của mình, bởi vì các phẩm
chất của bạn sẽ điều khiển cách thức bạn tiếp cận thị trường.
Tiếp cận thị trường gần
giống với việc tiến hành một cuộc chiến tranh. Cách tiếp cận của bạn có giống
thủ lĩnh Attila the Hun hoặc ngoại trưởng Mỹ Colin Powell hay không phụ thuộc
nhiều vào cá tính của bạn. Với cá tính của mình, ở bạn sẽ tự nhiên hình thành một
phong cách đầu tư cụ thể: tăng trưởng, giá trị, đà phát triển hay kỹ thuật. Chiến
lược đầu tư dựa trên phong cách của bạn là một kế hoạch, chiến thuật tổng thể
nhằm giành chiến thắng trong cuộc chiến. Chiến lược này được tạo nên bởi vô số
các chiến lược, phương pháp hay kỹ thuật nhỏ hơn khi lựa chọn, mua, bán và quản
lý các loại cổ phiếu. Cũng giống như một vị tướng, bạn có thể tận dụng phương
pháp được công nghệ hóa để tiến hành chiến lược. Một vị tướng thắng trận và một
nhà đầu tư thành công đều thực hiện các chiến lược của riêng mình mà không quan
tâm đến ý kiến chung hay cảm xúc.
Hãy tìm ra một chiến lược
hay một phương pháp mà bạn có thể sử dụng nhất quán từ đầu đến cuối, không phụ
thuộc vào những gì đám đông xung quanh bạn đang làm. Chiến lược đó phải phù hợp
với phong cách đầu tư của bạn, đồng thời phong cách đầu tư ấy phải hòa hợp với
các phẩm chất của bạn. Trong cuốn sách viết về cách các thương gia hàng đầu tạo
ra những khoản lợi nhuận khổng lồ, tác giả Jack Schwager kết luận, “Những thiên
tài chơi cổ phiếu” luôn trung thành với một chiến lược hay một phương pháp duy
nhất. Điểm khác biệt giữa họ với những người xung quanh là khả năng theo đuổi
liên tục, trung thành một phương pháp ngay cả khi họ phải đối mặt với những khó
khăn của thị trường hay khi mọi thứ dường như chống lại họ. Bạn chỉ có thể làm
được điều đó nếu bạn hành động đúng như cá tính của mình. Dĩ nhiên, mỗi người cần
phải thích nghi với những thay đổi của thị trường nhưng việc có một phương pháp
hay chiến lược phù hợp với cá tính sẽ loại bỏ cảm xúc ra khỏi các quyết định của
bạn.
Hầu hết các nhà đầu tư
nghiệp dư đều cảm thấy khó khăn khi theo đuổi một phương pháp, nguyên nhân là
do phương pháp đó không phù hợp với tính cách của họ. Chẳng hạn, nếu bạn là người
thiếu kiên nhẫn và thích hành động, bạn không thể trở thành một nhà đầu tư giá
trị giỏi, nhưng bạn có thể thành công khi mua và bán những cổ phiếu theo đà
phát triển. Tại sao vậy? Bởi vì các nhà đầu tư giá trị đôi khi phải đợi nhiều
năm mới gặt hái được thành quả trong khi các nhà đầu tư theo đà phát triển mua
cổ phiếu đang tăng giá vùn vụt và bán ngay khi đà phát triển của chúng bắt đầu
chậm lại.
Ngoài hai phong cách đầu
tư phổ biến trên, còn có rất nhiều phong cách đầu tư khác. Chúng ta sẽ nghiên cứu
chúng trong các chương tiếp theo. Trong phần này, chúng tôi muốn nhấn mạnh một
điều: Lựa chọn phong cách đầu tư phù hợp với cá tính sẽ giúp bạn tránh khỏi những
bực dọc, lo lắng và đảm bảo thành công của bạn trong đầu tư.
Nhà quản lý quỹ cũng có phong cách đầu tư
Việc xác định phong cách
đầu tư cũng rất quan trọng khi bạn có ý định đầu tư vào quỹ tương hỗ, vì người
ta thường phân biệt các quỹ tương hỗ dựa trên chiến lược và phong cách đầu tư khác nhau. Khi hiểu rõ điều
này, bạn có thể lựa chọn chính xác quỹ phù hợp với các mục tiêu đầu tư của
mình. Nhờ đó, bạn có thể nhanh chóng chuyển quỹ khi chúng không đáp ứng được
các mục tiêu của bạn. Mặc dù cuốn sách này chỉ tập trung vào phong cách và chiến
lược đầu tư của một nhà đầu tư cổ phiếu riêng lẻ, nhưng chúng tôi tin rằng nó vẫn
rất hữu ích đối với các nhà đầu tư quỹ tương hỗ.
CÂU CHUYỆN VỀ HAI LOẠI CỔ PHIẾU
Như chúng tôi đã nói
trong phần đầu cuốn sách, đầu tư hoàn toàn không dựa trên trực giác. Giảm tổn
thất và tăng lợi nhuận là một trong các nguyên tắc đầu tư phủ định vai trò của
trực giác. Song, hầu hết chúng ta đều làm ngược lại. Nếu nhìn thấy lợi nhuận từ
cổ phiếu, chúng ta có xu hướng bán ngay. Chúng ta không thích phải thừa nhận
thua lỗ. Do vậy, chúng ta thường nắm giữ cổ phiếu với suy nghĩ rằng giá cổ phiếu
sẽ tăng trở lại và lợi nhuận thu được có thể bù đắp khoản lỗ. Thậm chí, chúng
ta còn mua nhiều cổ phiếu đang xuống giá với mong muốn giảm chi phí trung bình
trên một cổ phiếu. Trong cả hai trường hợp này, chúng ta hành động dựa trên trực
giác và cảm xúc. Lối tư duy này có tác động rất lớn nhưng sai lầm. Chúng tôi sẽ
chứng minh điều đó qua hai loại cổ phiếu thực
tế.
Để tiện cho việc so sánh,
trên biểu đồ cũng như trong sách, giá của cả hai loại cổ phiếu đã được điều chỉnh
về mức 25 đô la.
Ngày 11/11/2000, một công
ty dịch vụ tư vấn có tiếng đã khuyên nhà đầu tư nên mua cổ phiếu của công ty
liên hợp M. S. Carriers (MSCA) và tập đoàn Vignette (VIGN). Cổ phiếu của cả hai
đều được định giá ở mức 25 đô la. Bây giờ hãy giả định, chúng ta mua hai loại cổ
phiếu này vào ngày 11/11/2000. Hãy nhìn Biểu đồ I.2 và xem chuyện gì xảy ra với
MSCA và VIGN.
Mười ngày sau khi mua
vào, giá cổ phiếu MSCA tăng lên 30 đô la và tỷ lệ tăng lợi nhuận là 20%, còn cổ
phiếu VIGN giảm xuống còn 18 đô la, tương đương với tỷ lệ lỗ là 18%. Rất nhiều
nhà đầu tư bị cám dỗ trước tỷ lệ tăng lợi nhuận 20% trong mười ngày của cổ phiếu
MSCA. Song, một số nhà đầu tư khác lại bị cám dỗ trước một khoản lợi nhuận trong
tương lai nếu họ đầu tư thêm để tăng gấp hai, gấp ba lần số cổ phiếu VIGN hiện
có. Tóm lại, nếu VIGN là một cổ phiếu tốt với mức giá 25 đô la khi chúng ta mua
vào thì nó có tuyệt vời hơn khi bị bán ở mức giá 18 đô la không? Cả hai vụ mua
và bán này đều dựa trên cảm xúc. Nó khiến chúng ta cảm thấy vui vẻ khi thu được
lợi nhuận và tồi tệ khi bị thua lỗ.
Chúng ta thấy mình thật
thông minh khi bán cổ phiếu MSCA và mua thêm cổ phiếu VIGN. Giá cổ phiếu VIGN
dao động xung quanh mức 18 đô la khi chúng ta mua thêm cổ phiếu. Mặc dù giá cổ
phiếu MSCA tăng 10%, chúng ta vẫn có một khoản lợi nhuận kha khá. Tuy nhiên, đến
ngày 5/12, chúng ta sẽ cảm thấy mình thật ngốc nghếch. Giá VIGN giảm xuống còn
12 đô la. Như vậy, chúng ta đã lỗ 50% vốn đầu tư ban đầu và lỗ tiếp 30% vốn đầu
tư lần hai vào VIGN. Tệ hơn nữa, cùng lúc đó, cổ phiếu MSCA tăng lên 38 đô la,
tức là tăng 50% so với mức giá ban đầu.
Quay lại thời điểm trước
đó, điều chúng ta cần làm là bán hết cổ phiếu VIGN càng nhanh càng tốt và nắm
giữ MSCA cho tới cuối tháng 12. Nhưng hành động này lại đi ngược với trực giác.
Khi hành động dựa trên cảm xúc và trực giác, đa số mọi người không thể cưỡng lại
được cám dỗ kiếm lợi nhanh chóng và tiếp tục mua thêm một loại cổ phiếu đang xuống
giá. Thực tế, bạn nên áp dụng một chiến lược khác, ngược lại hoàn toàn với chiến
lược trên: Giảm bớt thua lỗ và tăng lợi nhuận. Để làm được điều đó, chúng ta cần
có một chiến lược hay phương pháp loại bỏ cảm xúc ra khỏi quyết định.
Chúng tôi sẽ giới thiệu
và phân tích chi tiết chiến lược này trong Chương 4. Chiến lược này sẽ chỉ ra
các dấu hiệu cho thấy nên mua MSCA vào đầu tháng 11 và nắm giữ nó cho đến cuối
tháng 12 và bạn sẽ thu được một khoản lợi nhuận rất lớn. Chiến lược này cũng
giúp bạn tránh xa cổ phiếu VIGN hay nếu bạn đã trót mua nó thì chiến lược này sẽ
giúp giảm thiệt hại bằng cách đưa bạn thóat ra nhanh chóng và không bao giờ
quay trở lại.
Câu chuyện về hai loại cổ
phiếu trên cho thấy lý do khiến chúng ta cần có một chiến lược mua vào và bán
ra các loại cổ phiếu – một chiến lược tự động loại bỏ tất cả cảm xúc của bạn về
cổ phiếu. Điều duy nhất cần ghi nhớ trong cuốn sách này là nếu muốn tham gia
sân chơi chứng khoán, bạn luôn phải có một chiến lược tốt khi mua vào và bán ra
các loại cổ phiếu.
BỐ CỤC
Trong cuốn sách này,
chúng tôi thừa nhận những kiến thức cơ bản về thị trường. Chúng tôi cho rằng,
cơ bản, các bạn đã biết cổ phiếu là gì và thị trường cổ phiếu hoạt động như thế
nào. Mục đích của chúng tôi là giới thiệu với bạn các ý tưởng lựa chọn phong
cách đầu tư phù hợp với cá tính của bạn và sau đó lựa chọn các chiến lược và
phương pháp đầu tư phù hợp với phong cách đó.
Trong hai chương đầu,
chúng tôi đề cập đến một số vấn đề cơ bản để dẫn dắt đến các chiến lược và
phong cách đầu tư. Chương 1 tóm tắt các nhân tố khiến cổ phiếu tăng giá, đó là
kiến thức thị trường và niềm tin của nhà đầu tư. Ngoài ra, chúng tôi cũng đề cập
đến một số sự kiện ảnh hưởng đến các nhân tố này. Chương 2 trình bày ba chiến
lược phổ biến hình thành nên quy trình đầu tư: lựa chọn cổ phiếu, tính toán thời
điểm mua vào, bán ra và quản lý danh mục đầu tư. Mặc dù quy trình đầu tư này là
tiêu chuẩn cho mọi phong cách đầu tư nhưng các chiến lược lựa chọn, tính toán
thời điểm mua, bán cổ phiếu và quản lý danh mục đầu tư của mỗi cá nhân sẽ khác
nhau, tùy vào phong cách hay phương pháp đầu tư của từng người.
Chúng tôi bắt đầu thảo luận
về các phong cách đầu tư ở Chương 3. Chương này sẽ cung cấp cho bạn cái nhìn tổng
quan về tám phong cách khác nhau và giới thiệu biểu đồ số thương tâm lý PQ . Biểu
đồ này đánh giá yêu cầu đối với mỗi phong cách đầu tư theo mười tiêu chí khác
nhau dựa trên tâm lý và phẩm chất của nhà đầu tư. Các chương từ Chương 4 đến
Chương 7 trình bày bốn phong cách đầu tư chính: đầu tư tăng trưởng, đầu tư giá
trị, đầu tư theo đà phát triển và đầu tư kỹ thuật; trong đó có thảo luận về các
phẩm chất cần có đối với mỗi phong cách. Trong mỗi chương sẽ có phần nói đến
cách thức áp dụng một phong cách vào quỹ tương hỗ đầu tư và các quỹ ETF , cách
thức tìm kiếm các nguồn thông tin trên mạng về phong cách đó và những lời
khuyên để đầu tư thành công.
Chương 8 nghiên cứu vai
trò của vốn hóa thị trường đối với một chiến lược đầu tư. Vốn hóa thị trường là
cách thức đo lường giá trị của một công ty, được xác định bởi giá thị trường của
các cổ phiếu thường đã phát hành. Một số người thích mua những cổ phiếu có giá
trị vốn hóa lớn hoặc trung bình, trong khi một số khác lại thích mua những cổ
phiếu có giá trị vốn hóa nhỏ hoặc siêu nhỏ. Những sở thích này gây ra những mâu
thuẫn nghiêm trọng giữa các giá trị vốn hóa thị trường khác nhau, nên các giá
trị vốn hóa thị trường thay đổi theo từng thị trường khác nhau. Điều này cho
phép chúng ta sử dụng chúng như một chiến lược đầu tư phụ.
Chương 9 nghiên cứu các
chiến lược được dùng cho năm phong cách đầu tư phụ: đầu tư cơ bản, đầu tư doanh
thu, giao dịch chủ động, đầu tư kết hợp và phong cách lướt sóng. Tất cả các
phong cách này đều bắt nguồn hoặc được kết hợp từ bốn phong cách chính. Trong
chương này, chúng tôi cũng nhắc đến các chiến lược như: đầu tư từ trên xuống và
giao dịch nội bộ (mua bán nhờ biết được các thông tin nội bộ) và khẳng định
chúng ta có thể sử dụng chúng để hỗ trợ cho các phong cách đầu tư. Chương 10 giới
thiệu một số chiến lược đầu tư nâng cao như bán khống, đầu tư thị trường trung
lập, giao dịch chỉ số, tự bảo hiểm bằng cách mua bán hợp đồng quyền chọn và đầu
tư toàn cầu.
Khi đọc cuốn sách này, bạn
hãy luôn tâm niệm rằng, nó sẽ giúp bạn lựa chọn phong cách và thuyết phục bạn sử
dụng một chiến lược để lựa chọn cổ phiếu, một chiến lược để tính toán thời điểm
mua vào và bán ra và một chiến lược để quản lý danh mục đầu tư của bạn.
CHƯƠNG 1. Nhận thức của thị trường và
niềm tin của nhà đầu tư: Những nhân tố làm biến động giá cổ phiếu
Trước khi nói về các chiến
lược đầu tư, chúng ta cần thảo luận về nguyên nhân và cách thức biến động của
giá cổ phiếu.
Ai cũng biết, trong một
chừng mực nào đó, giá cổ phiếu có liên quan đến doanh thu. Nhưng thực tế, giá cổ
phiếu tăng hay giảm lại phụ thuộc vào sự thay đổi nhận thức của thị trường về lợi
nhuận của cổ phiếu trong tương lai và mức độ tin tưởng vào khả năng đạt được
doanh thu đó của các nhà đầu tư. Nếu biến động giá cổ phiếu chỉ phụ thuộc vào
việc một công ty có đáp ứng được các mục tiêu doanh thu hay không thì giá cổ
phiếu của một công ty không đạt được mục tiêu doanh thu trên một cổ phiếu (EPS)
dù chỉ là một xu sẽ giảm mạnh theo cùng một tỷ lệ. Ví dụ, nếu công ty A dự đoán
kiếm được 12 xu trong quý hai (mức dự đoán theo thỏa thuận) nhưng chỉ đạt được
11 xu, thấp hơn 8% so với dự đoán. Như vậy, giá cổ phiếu của công ty cũng sẽ giảm
xấp xỉ với tỷ lệ phần trăm như vậy. Nhưng thực tế lại thường khác hẳn.
Khi doanh thu của một
công ty thấp hơn dự đoán 1 xu, giá cổ phiếu của công ty đó sẽ giảm 30, 40 hay
thậm chí 50% hoặc hơn nữa. Tại sao vậy? Bởi vì doanh thu giảm xuống là điềm báo
chẳng lành cho những gì sắp diễn ra trong thời gian tới (chẳng hạn, công ty không
đạt được mức tăng trưởng doanh thu mục tiêu). Nói cách khác, các nhà đầu tư lo
sợ tỷ lệ tăng trưởng kỳ vọng 20% của công ty trong vài năm tới sẽ chỉ còn là 10
hay 15%. Nhận thức này tuy không hợp lý nhưng vẫn làm giảm niềm tin của các nhà
đầu tư vào tiềm năng doanh thu trong tương lai của công ty, do đó, dẫn tới sự sụt
giảm nghiêm trọng của giá cổ phiếu.
Bạn có thể cho rằng mức sụt
giảm 30, 40 hay 50% giá cổ phiếu mỗi quý là cái giá quá đắt và không công bằng
đối với một công ty chỉ thiếu 1 xu trong kế hoạch, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự
thay đổi mức tăng trưởng kỳ vọng trong tương lai. Nếu bạn xem lại biểu đồ I.1
trong Phần giới thiệu, bạn sẽ thấy khoản đầu tư 10.000 đô la sẽ tăng trưởng
tương ứng với từng tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận khác nhau. Với tỷ lệ tăng lợi
nhuận 20%, khoản đầu tư của bạn sẽ tăng 16 lần trong hơn một năm, gấp bốn lần
so với mức tăng lợi nhuận 10%. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ tăng trưởng của công ty
đang giảm từ 20% xuống 10%, tức là giảm một nửa, thì không có nghĩa là giá cổ
phiếu của công ty sẽ giảm 50% hoặc nhiều hơn.
Như bạn thấy, doanh thu
hiện tại là nhân tố dễ nhận biết nhất khi định giá cổ phiếu trên thị trường. Vỏ
bọc cấu trúc dễ đổ vỡ này là nhận thức của thị trường về các khoản doanh thu
trong tương lai và niềm tin đạt được chúng của các nhà đầu tư.
Nhận thức của thị trường
bị tác động bởi rất nhiều yếu tố. Một bản báo cáo nghiên cứu tuyệt vời với các
khoản doanh thu cao có thể khiến thị trường bất ngờ và chú ý đến công ty đó. Điều
tương tự cũng diễn ra khi một công ty tung ra sản phẩm mới hay có sự tham gia của
đội ngũ quản lý mới, năng động và tháo vát. Các yếu tố này đều được coi là động
lực tăng doanh thu trong tương lai. Mối quan hệ này được thể hiện trong tỷ số
giá trên thu nhập (P/E). P/E được tính bằng cách chia giá cổ phiếu của công ty
cho thu nhập tính trên mỗi cổ phiếu (EPS) trong năm trước đó. Trên thực tế, P/E
là mức thị trường đồng ý trả cho doanh thu tương lai của công ty và phụ thuộc
vào nhận thức của thị trường về những khoản doanh thu đó. Đây chính là lý do tại
sao chúng ta cần xem xét sự chênh lệch lớn giữa tỷ số P/E của các loại cổ phiếu.
Hãy xem xét ví dụ về Công
ty Phần mềm Advent và Công ty Morgan Stanley. Theo dự đoán, lợi nhuận thu về
khi mua cổ phiếu Advent trong năm tài khóa 2001 là khoảng 0,9 đô la.
Cũng trong năm đó, lợi
nhuận dự đoán của Morgan Stanley là 3,88 đô la. Tháng 8/2001, khi chúng tôi viết
chương này, tỷ số P/E của Advent là 51, dựa trên lợi nhuận dự kiến và giá cổ
phiếu là khoảng 46 đô la/cổ phiếu. Còn Morgan Stanley có tỷ số P/E bằng 13, dựa
trên lợi nhuận dự kiến và giá cổ phiếu khoảng 50 đô la/cổ phiếu. Các con số này
cho thấy, thị trường sẵn sàng trả giá cao gấp 51 lần lợi nhuận cho Advent nhưng
chỉ cao gấp 13 lần lợi nhuận cho Morgan Stanley. Tại sao lại như vậy? Tại sao
các nhà đầu tư lại trả giá cho loại cổ phiếu chỉ có lợi nhuận là 90 xu cao gần
bằng cổ phiếu đem lại lợi nhuận xấp xỉ 4 đô la? Đó chính là do nhận thức của thị
trường về doanh thu của Advent trong tương lai!
Thị trường nhận thấy tỷ lệ
tăng doanh thu tương lai của Advent sẽ cao hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình hiện
nay. Trên thực tế, tăng trưởng doanh thu của Advent trong năm 2002 đạt gần 40%,
tăng trung bình 33%/năm trong ít nhất là năm năm. Ngược lại, kỳ vọng tăng trưởng
đối với cổ phiếu của Morgan Stanley lại thấp hơn nhiều. Tỷ lệ tăng trưởng EPS
trong năm năm trước (1995 – 2000) của công ty là 14%, nhưng người ta dự đoán tỷ
lệ này chỉ còn 5% trong hai năm tới. Thực tế, dự báo doanh thu năm 2001 sẽ giảm
khoảng 20% so với năm trước.
Tuy nhiên, nhận thức luôn
thay đổi. Nhận thức của thị trường về tương lai một công ty có thể thay đổi
nhanh chóng và tác động mạnh đến giá cổ phiếu. Ví dụ trên về hai công ty Advent
và Morgan Stanley là ở thời điểm tháng 8/2001. Vào thời điểm bản thảo của chúng
tôi được chuyển cho nhà xuất bản, tháng 11/2001, Advent tuyên bố lợi nhuận thu
được trên một cổ phiếu trong quý ba là 14 đô la, trong khi đó dự đoán ban đầu
là 21 đô la. Như bạn có thể thấy trong biểu đồ I.1, trước tuyên bố doanh thu
quý ba của Advent, phản ứng của thị trường gần giống như khi xuất hiện tin đồn
doanh thu ngừng tăng trưởng trên thị trường phố Wall. Cho dù Advent đổ lỗi cho
sự kiện ngày 11/9, nhưng giá cổ phiếu đã liên tục giảm từ giữa tháng 7 và rơi
vào đợt giảm giá mạnh trong tuần đầu tiên của tháng 9. Sau ngày 11/9, giá cổ
phiếu còn giảm mạnh hơn nữa.
Ví dụ thực tế này cho thấy
tỷ số P/E cao có thể là do tỷ lệ tăng trưởng dự đoán cao. Qua đó, nó cũng làm
sáng tỏ tính hai mặt của tỷ số này: Khi một công ty không thể đáp ứng kỳ vọng của
thị trường, thì giá cổ phiếu của nó sẽ giảm nhanh và mạnh.
Biểu đồ 1.1
Nhận thức của thị trường
có thể thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng, nhưng biến động giá cổ phiếu cần có thời
gian mới trở thành một làn sóng nhận biết tràn ngập khắp thị trường. Đầu tiên,
sự nhận biết và quan tâm chỉ giới hạn ở một vài người. Chẳng hạn, một nhà phân
tích theo đuổi một loại cổ phiếu quyết định tăng mức dự đoán của mình về doanh
thu trong tương lai. Đầu tiên, thông tin đó chỉ giới hạn trong các nhà đầu tư
thân tín của công ty mà nhà phân tích này làm việc. Làn sóng nhận biết lan rộng
khi thông tin này trở nên phổ biến hơn. Các nhà môi giới cổ phiếu sẽ thông báo
cho một số ít khách hàng thân tín của họ. Rồi sau khi được thêm thắt, chỉnh sửa,
các dự đoán này được đưa lên phương tiện truyền thông. Đến thời điểm đó, công
chúng mới bắt đầu biết được thông tin “mới”
này.
Tăng trưởng doanh thu
Internet là nguồn cung cấp
thông tin phong phú về các khoản doanh thu trong quá khứ và doanh thu dự kiến.
Doanh thu trong quá khứ thường được được xem xét dựa trên tỷ lệ tăng trưởng
hàng năm trong một, ba và năm năm trước. Khoảng thời gian càng dài và tỷ lệ
tăng trưởng càng nhanh, niềm tin của các nhà đầu tư càng được củng cố. Dự đoán
doanh thu được đưa ra cho quý sau, năm hiện tại và những năm tài khóa sắp tới.
Một dự đoán rất quan trọng khác là dự đoán tỷ lệ tăng EPS trong một đến năm năm
tới (bạn có thể so sánh tỷ lệ tăng EPS dự kiến với tỷ số P/E khi muốn xác định
xem tỷ số P/E có hợp lý hay không). Hãy chắc chắn là bạn luôn có trong tay
thông tin của một số nhà phân tích. Năm nhà phân tích sẽ đáng tin cậy hơn một
người. Bạn sẽ thấy tin tưởng hơn khi cả năm cùng dự đoán một mức doanh thu giống
nhau, thay vì xem xét các dự đoán tràn ngập khắp mọi nơi. Do đó, dự đoán chung
này sẽ được coi là mục tiêu thống nhất hay “chính thức” mà công ty đó cần đạt
được.
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy
làn sóng thông tin trở nên mạnh hơn là khi giá cổ phiếu giảm mạnh. Thực tế, giá
cổ phiếu có thể tăng hoặc giảm. Giá mở cửa có thể cao hơn hoặc thấp hơn 10-20% so với giá đóng cửa ngày hôm trước.
Nhưng sẽ mất vài tuần hoặc vài tháng để sự thay đổi nhận thức thị trường tác động
đến giá cổ phiếu. Lý do của sự chậm trễ này là các nhà đầu tư theo tổ chức mất
nhiều thời gian để củng cố (hay giảm bớt) vị thế của họ đối với một loại cổ phiếu
thông qua số lượng cổ phiếu họ đang nắm giữ. Do đó, sự thay đổi trong nhận thức
của thị trường chỉ hoàn tất cho đến khi các tổ chức củng cố hoặc giảm bớt vị thế
của họ đối với cổ phiếu.
Niềm tin của các nhà đầu tư
cũng là một bức tường chắn trong hệ thống định giá cổ phiếu. Để duy trì giá trị
của một chứng khoán, sự tin tưởng vào doanh thu tương lai cũng có ý nghĩa quan
trọng như khả năng nhận thức tỷ lệ tăng EPS của thị trường. Hãy suy nghĩ về điều
này. Với một chứng khoán mà bạn chắc chắn rằng giá của nó sẽ tăng 30%/năm, bạn
sẽ sẵn lòng trả giá cao hơn một loại cổ phiếu mà bạn không thực sự tin chắc,
đúng không? Dĩ nhiên, càng tin tưởng chắc chắn vào việc sẽ đạt được doanh thu
hay tỷ lệ tăng trưởng, bạn càng sẵn lòng “đánh cược” rằng điều đó sẽ xảy ra.
Sự tin tưởng đó phụ thuộc
vào tình hình hoạt động của công ty trong quá khứ. Nếu một công ty liên tục đạt
được hay vượt quá chỉ tiêu lợi nhuận trong nhiều quý thì các nhà đầu tư tin tưởng
rằng công ty đó cũng sẽ tiếp tục làm được như vậy. Nếu một công ty tăng trưởng ở
mức 20%/năm trong nhiều năm thì các nhà đầu tư dễ dàng hình thành niềm tin là
nó sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức 20% trong những năm tiếp theo. Một lịch sử
doanh thu bền vững khiến chúng ta tin tưởng hơn vào doanh thu dự kiến trong
tương lai. Sự tin tưởng này được thể hiện ở tỷ số P/E cao hơn – giá cổ phiếu
cao hơn doanh thu hiện tại. Đó là lý do tại sao vào thời điểm mùa hè năm 2001,
các nhà đầu tư sẵn sàng trả cao hơn gấp 50 lần giá trị hiện tại cho chứng khoán
của Advent. Bởi họ tin tưởng mãnh liệt rằng Advent sẽ đạt được, thậm chí là vượt
chỉ tiêu doanh thu đã đề ra.
Sự tin tưởng thường không
đến và đi nhanh chóng. Nếu có một làn sóng nhận biết làm thay đổi nhận thức của
thị trường về một công ty, thì cũng có một làn sóng tin tưởng thay đổi theo thời
gian. Sau khi công ty kế toán Euron phá sản vào mùa thu năm 2001, tình trạng mất
lòng tin tràn ngập thị trường, dẫn tới sự sụt giảm giá cổ phiếu của hàng loạt
công ty gặp rắc rối về tài chính.
Nhận thức của thị trường
và sự tin tưởng của nhà đầu tư về mức tăng trưởng doanh thu trong tương lai của
một công ty là những yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và tỷ số P/E. Những thay
đổi của một trong hai hoặc cả hai yếu tố sẽ gây ra sự biến động giá cổ phiếu.
Trong Chương 1, chúng tôi sẽ tập trung nói về hai yếu tố này.
NHỮNG SỰ KIỆN LÀM THAY ĐỔI NHẬN THỨC HAY NIỀM TIN
Đôi khi, doanh thu quá khứ
và doanh thu dự kiến chính là những số liệu đáng tin cậy mà bạn có thể dựa vào
để đưa ra quyết định đầu tư cổ phiếu. Song, bạn vẫn cần theo dõi danh mục đầu
tư để đề phòng những sự kiện có thể thay đổi nhận thức của thị trường hoặc niềm
tin của các nhà đầu tư. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một yếu
tố bị ảnh hưởng, yếu tố còn lại cũng bị ảnh hưởng theo.
Hãy xem xét một số sự kiện
có thể làm thay đổi nhận thức về doanh thu tương lai của một loại cổ phiếu và mức
độ tin tưởng của nhà đầu tư vào mức doanh thu này. Các chiến lược khác nhau của
một phong cách đầu tư bất kỳ mà chúng tôi đưa ra trong cuốn sách sẽ bám rất sát
các yếu tố này. Dưới đây là mười sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất đến nhận thức của
thị trường cũng như niềm tin của các nhà đầu tư.
1. Thông báo doanh thu: Bạn sẽ đánh bại
thị trường phố Wall hay thị trường phố Wall sẽ
hạ gục bạn?
Doanh thu hàng quý của một
công ty là yếu tố hàng đầu tác động đến nhận thức của thị trường và sự tin tưởng
của các nhà đầu tư, mặc dù không phải lúc nào bạn cũng dự đoán được hướng thay
đổi này. Chúng tôi vừa nói về những rắc rối có thể xảy ra khi một công ty không
đạt được dù chỉ là 1 xu doanh thu theo đúng mục tiêu. Nhưng đã bao nhiêu lần bạn
nghe thấy một công ty có mức doanh thu vượt chỉ tiêu nhưng giá cổ phiếu của
công ty đó vẫn đi xuống chứ không phải đi lên? Thực tế trái ngược với trực giác
này một lần nữa là do nhận thức của thị trường về doanh thu trong tương lai của
công ty. Doanh thu có thể vượt chỉ tiêu nhưng dường như thị trường lại mong đợi
những con số lớn hơn dựa trên “những con số được bàn tán”. Kết quả là, một dấu
hiệu có vẻ là thông tin tích cực lại được cho là tiêu cực. Việc công ty không đạt
được các con số như đồn thổi là một lời cảnh báo sớm về việc công ty đó khó có
thể đạt mức doanh thu và tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai.
Những con số được bàn tán
Một hoặc hai tuần trước
khi một công ty thông báo doanh thu hiện tại, mọi người thường bán tán về những
con số doanh thu được các nhà môi giới cổ phiếu và nhà phân tích dự đoán và
trao đổi qua điện thoại, khi ăn trưa, tại các bữa tiệc cocktail. Trước đây, những
con số được bàn tán là thông tin mật của các chuyên gia trên thị trường phố
Wall. Còn giờ đây, chúng được công bố rộng rãi trên mạng. Những con số được bàn
tán có lẽ dựa trên các tin đồn về một sự kiện quan trọng hay các cuộc thảo luận
không chính thức giữa những người trong nội bộ công ty. Dù những con số này bắt
nguồn từ đâu, chúng vẫn là kỳ vọng “thực” của thị trường về doanh thu của công
ty và nếu một công ty không đạt được những con số được bàn tán đó, giá cổ phiếu
có thể tụt dốc rất nhanh.
Báo cáo doanh thu có thể
tạo ra những thay đổi tiêu cực trong nhận thức hay sự tin tưởng. Báo cáo có thể
đưa ra một dấu hiệu tiêu cực rõ ràng như lời cảnh báo công ty sẽ gặp khó khăn
trong các quý tiếp theo. Đôi khi, giá cổ phiếu sụt giảm lại là do báo cáo đã bỏ
sót những chi tiết khả quan của công ty. Như sau này, khi nói về các phong cách
đầu tư, chúng tôi có nói đến mối nguy hiểm khi mua cổ phiếu của những công ty
được kỳ vọng cao có giá cổ phiếu dựa trên những dự đoán doanh thu cao khác thường
trong tương lai xa. Thậm chí, một thay đổi rất nhỏ trong nhận thức của thị trường
hay mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư cũng gây ra biến động lớn cho giá của
những cổ phiếu kiểu như vậy.
Nếu một công ty thường
xuyên thông báo doanh thu đạt hay vượt quá kỳ vọng của thị trường, giá cổ phiếu
của công ty đó sẽ tăng rất nhanh và mạnh nhờ nhận thức và niềm tin của các nhà
đầu tư về tương lai tươi sáng của công ty này.
2. Khi các nhà phân tích thay đổi dự đoán
Nhiều cuốn sách đã chứng
minh rằng một trong những yếu tố dự đoán chính xác biến động tích cực hay tiêu
cực của giá cổ phiếu nhất chính là sự thay đổi dự đoán của các nhà phân tích
trong một tháng. Báo cáo nghiên cứu đầu tiên của nhà phân tích thường mang tính
tích cực. Thông thường, nhà phân tích này làm việc cho công ty và tìm kiếm những
điều tốt đẹp để ca ngợi. Sự thay đổi những dự đoán đó rất có ý nghĩa, bởi vì
nhà phân tích này đã tiên phong khi nói rằng: “Tôi vừa thay đổi suy nghĩ” hay
“Tôi đã sai”. Chẳng hạn, nếu một nhà phân tích nói rằng: “Tháng trước tôi nói
công ty sẽ thu được 1 đô la trên mỗi cổ phiếu và bây giờ tôi vẫn nghĩ vậy”. Đây
là một nhận xét rất tích cực vì hai lý do. Trước hết, nhà phân tích này đã đi đầu
trong việc tăng mức dự đoán và thứ hai, thông báo này cho thấy một vài sự kiện
mới hay sự tiến bộ của công ty. Không quá ngạc nhiên khi mức dự đoán doanh thu
tăng cao dẫn tới những thay đổi tích cực của giá chứng khoán.
Thay đổi tiêu cực trong
việc dự đoán của các nhà phân tích tác động tới giá cổ phiếu mạnh hơn những
thay đổi tích cực. Thực tế, tính phá hủy của nó rất lớn. Một nhà phân tích phải
rất dũng cảm mới dám dự đoán thấp đi, vì những điều họ nói không có lợi cho
khách hàng của công ty.
Số nhà phân tích thay đổi
dự đoán cũng rất quan trọng. Nhiều nhà phân tích thay đổi mức dự đoán sẽ gây ảnh
hưởng lớn tới giá cổ phiếu hơn là một nhà phân tích đưa ra thay đổi.
3. Công ty cảnh báo: “Chúng tôi rất tiếc phải thông báo với
các bạn…”
Khi một công ty thông báo
không đáp ứng được mức doanh thu dự kiến thì hãy coi chừng! Năm 2001, việc các
công ty cảnh báo mình không thể theo đúng kế hoạch như dự kiến thường xuyên xảy
ra. Đây là lý do giải thích vì sao trong quý ba chúng ta lún sâu vào thị trường
đầu cơ giá xuống. Các công ty lần lượt đưa ra những dự đoán thấp hơn về tình
hình hoạt động trong tương lai của mình. Điều đó sẽ gây bất lợi cho giá cổ phiếu,
nhất là khi đó là sự thật. Tìm hiểu thông tin từ công ty là một trong những
cách chính xác nhất để biết chuyện gì có thể xảy ra với doanh thu của công ty
trong tương lai.
Hội thảo về doanh thu
Mạng Internet đã thu hẹp
khoảng cách giữa ban quản lý công ty với các nhà đầu tư cá nhân. Khi tham gia
các cuộc họp về doanh thu, bạn có thể nhận trực tiếp thông báo doanh thu từ một
nguồn tin đáng tin cậy. Các cuộc họp hàng quý giữa giám đốc điều hành, giám đốc
tài chính và các nhà phân tích thường được công bố công khai trên mạng.
Tuy nhiên, vẫn có những
ngoại lệ. Một số công ty, chẳng hạn như Microsoft, gây sức ép cho các nhà phân
tích để buộc họ đưa ra những dự đoán thấp hơn mức thực tế mà công ty có thể đạt
được. Rồi sau đó, công ty này liên tiếp đáp ứng được hay vượt quá mong đợi của
thị trường phố Wall. Tuy nhiên, nhìn chung, nếu một công ty thông báo sẽ khó hoạt
động tốt như mong đợi, bạn hãy tin lời cảnh báo đó.
4. Lãi suất thay đổi: Khi Greenspan lên tiếng
Việc cắt giảm tỷ lệ lãi
suất có thể gây ra hai tác động đến cổ phiếu. Cả hai tác động này thường mang
tính tích cực. Khi tỷ lệ lãi suất giảm, người tiêu dùng sẽ tăng chi tiêu, còn
các doanh nghiệp cũng thu được lợi nhuận cao, nên họ sẵn sàng bỏ tiền vào các
chương trình nghiên cứu sản phẩm mới và mở rộng quy mô. Tất cả các hoạt động
này đều kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Việc kỳ vọng những khoản lợi nhuận
cao hơn sẽ dẫn đến tăng doanh thu. Do đó, các nhà đầu tư sẽ thấy tin tưởng hơn
vào tiềm năng doanh thu trong tương lai của công ty. Như vậy, tỷ lệ lãi suất thấp
tác động tích cực lên cả nền kinh tế. Đó là lý do tại sao Quỹ Dự trữ Liên bang
cắt giảm lãi suất trong năm 2001 với hy vọng bảo vệ quốc gia khỏi một cuộc suy
thoái.
Tác động tích cực thứ hai
của việc cắt giảm lãi suất không liên quan đến nhận thức của thị trường hay sự
tin tưởng của các nhà đầu tư về doanh thu trong tương lai. Cắt giảm lãi suất đơn
giản chỉ khiến các nhà đầu tư không muốn mua nhiều tiêu sản mà chuyển sang mua
cổ phiếu thường, do đó đẩy giá cổ phiếu của tất cả cách ngành lên cao.
Việc tăng lãi suất chắc
chắn có tác động ngược lại. Lãi suất cao khiến người tiêu dùng phải cắt giảm
chi tiêu, còn lợi nhuận của các công ty giảm sút khiến chi tiêu hạn chế. Tất cả
những điều này đều có tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Khi lãi suất vẫn tiếp
tục tăng cao, các nhà đầu tư sẽ rút bớt tiền ra khỏi thị trường cổ phiếu sang
các công cụ nợ. Dĩ nhiên, một số công ty và ngành kinh doanh sẽ hưởng lợi khi
lãi suất tăng cao, chẳng hạn như ngành ngân hàng. Do đó, những công ty và những
ngành này có thể có phản ứng khác khi lãi suất thay đổi.
5. Giao dịch nội bộ: Những người trong nội bộ chắc chắn
biết nhiều hơn chúng ta
Nếu những người trong nội
bộ công ty đem khoản tiền họ vất vả kiếm được để mua cổ phiếu trên thị trường tự
do thì đó là dấu hiệu tốt cho thấy họ tin tưởng doanh thu trong tương lai của
công ty sẽ cao hơn kỳ vọng của thị trường. Hay ít nhất, dấu hiệu này cũng cho
thấy giá cổ phiếu của công ty vào thời điểm đó rất thấp. Tóm lại, ai có thể hiểu
rõ triển vọng của công ty hơn những người đứng đầu bộ máy đó? Dĩ nhiên, không
phải lúc nào họ cũng đúng. Đôi khi, những điều xảy ra trong tương lai không giống
như những gì họ mong đợi.
Thậm chí, nếu có vấn đề
gì xảy ra thì đôi khi, thị trường không thể nhận biết được như họ. Do đó, giá cổ
phiếu có thể xuống rất thấp. Nhìn chung, quyết định mua cổ phiếu của nhân viên
công ty là một trong hai yếu tố dự đoán tốt nhất về biến động tích cực của cổ
phiếu trong tương lai (yếu tố còn lại là sự thay đổi dự đoán của các nhà phân
tích).
Ngược lại, quyết định bán
ra của nội bộ công ty tuy không phải là dấu hiệu tốt nhưng cũng chưa chắc là dấu
hiệu xấu. Có rất nhiều công ty thường đưa ra các chính sách lương thưởng cho
các ủy viên Hội đồng quản trị dựa trên cổ phiếu. Điều này khiến họ chỉ có thể
bán cổ phiếu nếu muốn mua nhà mới hay nuôi con học đại học. Hơn nữa, trong mỗi
quý, họ chỉ có một vài tuần để tiến hành việc bán lại. Luật lệ không quá cứng
nhắc và hầu hết các công ty cổ phần thường cho phép những người trong công ty
giao dịch cổ phiếu trong khoảng thời gian từ khi công bố doanh thu quý trước đến
trước khi công bố doanh thu quý sau. Mục đích của việc này là ngăn chặn việc
bán thông tin chưa được phổ biến ra công chúng. Tuy nhiên, việc bán ra đó lại
cho thấy dấu hiệu của sự tin tưởng vào tương lai công ty và nếu những người
trong công ty đang bán ra số lượng lớn cổ phiếu thì đó lại là dấu hiệu ngược lại.
6. Hiệu ứng lan tỏa tin tức trong ngành
Tình hình hoạt động của một
nhóm ngành có thể củng cố lòng tin của các nhà đầu tư và nhận thức của thị trường.
Nếu gần như tất cả cổ phiếu trong một ngành đang tăng giá thì có nghĩa là tất cả
cổ phiếu trong ngành đó đang gặp thuận lợi. Do đó, những tin tức tác động đến
toàn ngành có thể đẩy mạnh tăng trưởng hay gây nguy hại đến nhận thức của thị
trường và sự tin tưởng của các nhà đầu tư về tất cả cổ phiếu trong ngành đó.
Hãy xem xét ngành công
nghiệp dầu mỏ vào thời điểm cuối năm 2000, đầu năm 2001. Lần lượt từng công ty
dầu mỏ báo cáo doanh thu tăng mạnh vì lý do đơn giản là giá năng lượng vừa
tăng. Đây đúng là một dự báo tốt về doanh thu trong tương lai cho hầu hết các
công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Nếu nhiều công ty trong một ngành công
nghiệp đang hoạt động hiệu quả nhờ một sự kiện chung thì “tin tức tốt lành” đó
cũng có thể mang lại lợi ích cho các công ty khác trong ngành.
Tin xấu cũng có ảnh hưởng
lan tỏa tương tự như vậy. Chẳng hạn, giảm giá có thể là tin tốt cho người tiêu
dùng nhưng lại là tin xấu đối với lợi nhuận của công ty. Sự kiện giá máy tính
cá nhân (PC) giảm năm 2001 đã làm suy giảm sự kỳ vọng và tin tưởng của các nhà
đầu tư trong toàn ngành sản xuất PC.
7. Lợi nhuận thay đổi: Tin tốt hay xấu?
Khi doanh thu tăng, thông
thường, lợi nhuận cũng sẽ tăng theo. Nói chung, lợi nhuận tăng chứng tỏ công ty
đã mua nguyên liệu thô với khối lượng lớn và mức giá rẻ hơn hoặc cùng một chi
phí cố định nhưng lại tạo ra doanh thu lớn hơn. Điều này cũng chứng tỏ công ty
đó hoạt động rất tốt. Lợi nhuận tăng có thể do hai nguyên nhân là tăng giá bán
hoặc giảm chi phí. Cả hai yếu tố đều là dấu hiệu tốt và cả hai đều làm tăng kỳ
vọng vào một kết quả sẽ được cải thiện trong tương lai.
Ngược lại, lợi nhuận giảm
chủ yếu là do khối lượng hàng bán giảm, dẫn tới giá giảm mạnh hoặc do chi phí
cho nguyên vật liệu thô tăng. Các công ty hiếm khi công bố rộng những biến động
lợi nhuận nhưng những tin tức về giảm giá sẽ được công bố rộng rãi trên truyền
thông. Cuộc chiến giá cả sẽ khiến lợi nhuận giảm và làm thay đổi nhận thức của
thị trường về sự tăng trưởng trong tương lai của các công ty. Bạn có thể tìm dấu
hiệu giảm sút lợi nhuận qua nghiên cứu báo cáo tài chính năm 10Q và báo cáo tài
chính quý 10K của công ty hoặc bằng việc sử dụng thông tin cổ phiếu trên mạng.
8. Thay đổi trong khối lượng hàng tồn kho: Dấu hiệu để hiểu
kỹ hơn về công ty
Sự thay đổi khối lượng
hàng tồn kho của công ty có thể ảnh hưởng đến doanh thu trong tương lai, do đó ảnh
hưởng đến nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Khối lượng
hàng tồn kho lớn là dấu hiệu chắc chắn cho thấy doanh số bán hàng giảm sút và
đó không phải là điềm lành cho các khoản doanh thu trong tương lai.
Khối lượng hàng tồn kho
giảm không ảnh hưởng nhiều đến doanh thu tương lai. Nhìn chung, lượng hàng tồn
kho giảm là dấu hiệu tốt. Song, lượng hàng tồn kho giảm có thể vì nhiều nguyên
nhân như những rắc rối trong quá trình sản xuất. Nếu bạn thấy có sự thay đổi về
lượng hàng tồn kho trong báo cáo 10Q hay 10K của một công ty, bạn cần tìm hiểu
xem chuyện gì đang diễn ra.
9. Công nghệ và sản phẩm: Đổi mới là tốt
Đột phá công nghệ chắc chắn
sẽ tăng kỳ vọng về doanh thu trong tương lai của một công ty. Sản phẩm mới cũng
vậy. Nếu Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ (FDA) phê chuẩn cho loại thuốc
mới của một công ty dược phẩm hay một loại khoai tây mới của một hãng sản xuất
khoai tây chiên, thì các nhà đầu tư sẽ luôn tin tưởng những khoản doanh thu
kếch xù trong tương lai của
công ty đó sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên, bạn cần biết thời điểm nên tung
những đột phá công nghệ hay sản phẩm mới vào thị trường. Thông thường, quá
trình tung những đột phá công nghệ hay sản phẩm mới gồm ba bước.
Bước thứ nhất, công ty
công bố việc phát triển một sản phẩm mới dựa trên những đột phá về công nghệ.
Thông báo này thường mang tính tích cực và làm tăng kỳ vọng về doanh thu trong
tương lai.
Bước thứ hai bắt đầu khi
sản phẩm đã hoàn thiện hay được FDA chấp nhận cho lưu hành. Lúc này, sự tin tưởng
của nhà đầu tư tăng lên bởi tiềm năng doanh thu của công ty đang dần trở thành
hiện thực.
Bước thứ ba bắt đầu khi sản
phẩm đã có mặt trên thị trường và mang lại lợi nhuận. Giả định rằng doanh thu
và lợi nhuận đều cao, khi đó, mức độ tin tưởng sẽ tiếp tục tăng và tác động
tích cực đến doanh thu của công ty.
10. Sản phẩm thất bại: Sai lầm chết người hay nhất thời?
Sản phẩm thất bại ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của các nhà đầu tư hơn là
sản phẩm thành công. Chẳng hạn, nếu một sản phẩm bắt buộc phải có sự chấp thuận
của FDA trước khi tung ra thị trường thì việc FDA không phê chuẩn có thể sẽ khiến
giá cổ phiếu giảm. Nếu một sản phẩm thất bại vì bất kỳ lý do nào và không được
tung ra thị trường theo đúng kế hoạch thì chắc chắn dự đoán tăng doanh thu
trong tương lai của công ty không thể trở thành hiện thực và giá cổ phiếu sẽ giảm.
Dĩ nhiên, vẫn có những ngoại lệ.
Luôn có những ngoại lệ
khiến nhiều các nhà đầu tư ngạc nhiên. Đôi khi, một thông báo về việc dây chuyền
sản xuất bị tạm ngừng hoặc một bộ phận bị đóng cửa sẽ tác động tích cực đến nhận
thức của thị trường và sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Trong những trường hợp
như vậy, sự tin tưởng của các nhà đầu tư càng được củng cố do sự thua lỗ đã được
khắc phục và đó được coi là một sự kiện tốt.
Những yếu tố được đề cập ở
trên chỉ là một phần trong các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức của thị trường
và sự tin tưởng của nhà đầu tư về doanh thu tương lai của công ty. Điều quan trọng
là bạn cần nhận thức được rằng chính các khoản doanh thu trong tương lai và/hoặc
sự tin tưởng vào các khoản doanh thu đó sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trong
tương lai. Chiến lược đầu tư của bạn phải tính đến các yếu tố này.
Vai trò của tỷ số P/E tăng
Việc giải thích ảnh hưởng
của tỷ số P/E mở rộng rất hữu ích khi so sánh với tỷ số P/E rút gọn được đề cập
ở đầu chương này. Trong ví dụ đó, chúng ta đã xem xét một công ty chỉ kiếm được
11 xu chứ không phải mức lợi nhuận dự đoán là 12 xu và giá cổ phiếu giảm mạnh.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét một công ty có doanh thu trong tương lai vượt quá
mức dự đoán. Đây là ví dụ đã được đơn giản hóa nhưng nó sẽ giải thích cụ thể
khái niệm này.
Chúng ta hãy giả định rằng
công ty ABC có tỷ số P/E hiện tại là 10, giá một cổ phiếu là 44 đô la và lợi
nhuận dự đoán trong quý này là 1,1 đô la/cổ phiếu (và 4,4 đô la/cổ phiếu cho
năm đó). Cùng kỳ năm ngoái, lợi nhuận thu được từ ABC là 1 đô la. Như vậy, tỷ lệ
tăng trưởng là 10%. Nhưng trong quý này, công ty kiếm được 1,20 đô la/cổ phiểu
thay vì 1,1 đô la/cổ phiếu, khiến tỷ lệ tăng trưởng là 20%. Nhờ sự kiện này, thị
trường bắt đầu tin tưởng rằng tỷ lệ tăng trưởng của công ty có thể cao hơn nữa.
Với tỷ lệ tăng trưởng 20%, các nhà đầu tư sẵn sàng trả giá cho ABC cao hơn ít
nhất 20 lần doanh thu hiện tại. Tỷ lệ tăng trưởng 20% sẽ đem lại khoản lợi nhuận
là 4,8 đô la/cổ phiếu trong năm nay (thay vì 4,4 đô la/cổ phiếu), do đó nếu các
nhà đầu tư đủ tin tưởng để trả cao gấp 20 lần doanh thu hiện tại, đẩy tỷ số P/E
lên bằng 20, thì giá cổ phiếu sẽ tăng lên 96 đô la/cổ phiếu.
Khi lợi nhuận thu được từ
công ty vượt quá mức dự đoán trong một quý và công ty chứng minh được khả năng
tăng doanh thu thì giá cổ phiếu sẽ tăng mạnh. Do đó, bạn kiếm được khoản lợi
nhuận gấp đôi hoặc gấp năm lần khoản đầu tư ban đầu. Những điều này có được là
nhờ sự tin tưởng và sự thay đổi trong nhận thức.
Giá cổ phiếu ở ví dụ trên
tăng gấp đôi vì tỷ số P/E tăng, nhưng giá của nhiều cổ phiếu khác thậm chí còn
tăng cao hơn gấp năm hay mười lần giá ban đầu với việc tăng đồng thời cả tỷ lệ
tăng trưởng và tỷ số P/E. Để chứng minh điều này, chúng ta hãy xem lại ví dụ về
cổ phiếu của công ty ABC. Theo nhận định của thị trường, loại cổ phiếu có tỷ lệ
tăng trưởng là 20% tương đương với khoản lợi nhuận sẽ tăng tới 4,8 đô la trong
năm nay. Chúng ta hãy giả định rằng ABC sẽ mang lại 1,3 đô la/cổ phiếu trong
quý tiếp theo, khiến mọi người thêm tin tưởng rằng công ty có thể tăng trưởng với
tỷ lệ 30% một năm thay vì 20%. Do đó, bây giờ, chúng ta có một công ty được giả
định là thu được 1,1 đô la trong hai quý trước và 1,3 đô la trong hai quý sau.
Nếu bây giờ thị trường
tin tưởng rằng loại cổ phiếu có mức tăng trưởng dự đoán trong vài quý trước là
10% này thực tế lại tăng trưởng 30% và nếu đây là mức tăng trưởng bền vững thì
các nhà đầu tư rất sẵn sàng trả giá cao gấp 30 lần doanh thu hoặc hơn thế nữa.
Điều này khiến tỷ số P/E tăng lên 30 hoặc hơn và giá cổ phiếu tăng lên xấp xỉ
160 đô la/cổ phiếu.
Hiện tại, giá cổ phiếu
này đã tăng gấp bốn lần giá ban đầu và là loại cổ phiếu mà tất cả chúng ta đều
muốn mua.
Tỷ số P/E tăng là nguyên
nhân khiến thị trường sẵn sàng trả giá cho cổ phiếu hiện hành cao hơn mức giá
hiện tại dựa trên cơ sở sự nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của các nhà
đầu tư về các khoản doanh thu trong tương lai. Tuy nhiên, tỷ số P/E càng cao
thì cơ sở đó càng trở nên bất ổn và bất cứ tin tức xấu nào làm giảm nhận thức
hay sự tự tin đều có thể khiến tỷ số P/E giảm nhanh chóng. Chúng ta phải luôn nắm
vững điều này khi xây dựng chiến lược đầu tư của mình.
Hãy nhớ rằng tỷ số P/E phải
được điều chỉnh trong mối quan hệ với tỷ số P/E của thị trường (là tỷ số P/E
trung bình của tất cả các loại cổ phiếu). Trước đây tỷ số P/E của thị trường
thường dao dộng từ 15-25. Do đó, giả định rằng P/E của thị trường bằng 25 thì
việc các công ty tăng trưởng nhanh có tỷ số P/E bằng 30 hay thậm chí 50 là
không hợp lý. Hoặc ngược lại, thị trường luôn đòi hỏi các công ty đó tăng trưởng
cao ở mức trên trung bình và công ty sẽ gặp khó khăn nếu không làm được như vậy.
CHƯƠNG 2. Quy
trình đầu tư
Nền móng của các phong
cách đầu tư là quy trình đầu tư. Dù bạn tuân theo phong cách đầu tư nào: đà phát triển, tăng trưởng, giá trị, kỹ thuật hay thậm
chí bạn không tuân theo một phong cách nào, bạn vẫn phải lựa chọn những
loại cổ phiếu mà bạn thích, mua và bán chúng để tối đa hóa lợi nhuận và quản lý
danh mục đầu tư. Chiến lược có thể khác nhau tùy theo phong cách nhưng điều
quan trọng là nhà đầu tư phải nắm vững quy trình đầu
tư dù áp dụng bất cứ phong cách nào. Nếu bạn
là nhà đầu tư giá trị, bạn sẽ phải tìm hiểu đặc điểm của một loại cổ phiếu nhiều
hơn nhà đầu tư theo đà phát triển. Bạn luôn cần một phương pháp lựa chọn
cổ phiếu. Bạn luôn cần một phương pháp tính toán thời điểm hợp lý để mua vào và
bán ra hợp lý. Dù theo phong cách nào, bạn vẫn phải
quản lý danh mục đầu tư và quyết định những vấn đề như phân bổ vốn, đa dạng hóa
và các vấn đề khác có liên quan đến danh mục đầu tư.
Ba chiến lược
này (lựa chọn cổ phiếu, tính toán thời điểm mua bán cổ phiếu và quản lý danh mục
đầu tư) tạo nên một quy trình đầu tư. Quy trình này giúp thiết lập nên cơ cấu tổ chức và vấn đề
cơ bản nhất của một phong cách đầu tư. Trước khi xem xét cụ thể từng phong
cách, chúng ta hãy tìm hiểu kỹ ba bước của quy trình đó. Sau đó, khi nói về từng
phong cách, chúng ta sẽ đưa ra chiến lược cụ thể cho từng bước.
BƯỚC 1: LỰA CHỌN CỔ PHIẾU
Bất kỳ một quy trình đầu
tư nào cũng luôn bắt đầu bằng việc lựa chọn cổ phiếu. Việc quyết định mua loại
cổ phiếu nào là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Khi chúng tôi viết cuốn sách
này, có hơn 10.000 loại cổ phiếu của 100 hoặc 200 ngành khác nhau được niêm yết
trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE), Sàn giao dịch cổ phiếu Mỹ
(AMEX) và Sàn giao dịch chứng khoán điện tử Mỹ (NASD). Các loại cổ phiếu này có
nguồn vốn từ vài triệu đến hàng tỷ đô la. Giá cổ phiếu, mức tăng trưởng doanh
thu, doanh thu, lượng hàng bán được và các nhân tố khác của từng công ty đều rất
đa dạng. Với vô số lựa chọn như vậy, bạn nên tìm ra những loại cổ phiếu phù hợp
với nhu cầu và mục tiêu cụ thể của mình, đồng thời có thể đem lại lợi nhuận như
mong muốn.
Khi đầu tư, chúng ta thường
lựa chọn cổ phiếu khá tùy tiện. Chúng ta nghe theo lời khuyên, gợi ý của bạn
bè, hàng xóm hay làm theo một câu chuyện đọc trên báo, ti vi. Đây chắc chắn
không phải là cách hay để lựa chọn cổ phiếu. Các nhà đầu tư bình thường luôn là
những người cuối cùng được biết chuyện gì đang thật sự diễn ra. Khi tin đồn hay
câu chuyện về một loại cổ phiếu lan rộng, làn sóng nhận thức đầu tiên (như
chúng tôi đã đề cập ở Chương
1) đã bao phủ thị trường
phố Wall và tin tức này đã tác động đến giá cổ phiếu từ trước đó. Do đó, bất cứ
khi nào bạn hành động dựa trên tin tức, hãy tự hỏi liệu giá cổ phiếu hiện tại
có hợp lý không (xem Giá cổ phiếu dựa trên GARP ở Chương 4). Thậm chí, ngay cả
khi giá đã hợp lý thì việc hành động dựa trên những gợi ý không có căn cứ không
phải là cách lựa chọn cổ phiếu khôn ngoan. Tại sao
bạn không mua loại cổ phiếu đáp ứng tốt nhất mục tiêu của bạn thay vì mua loại
cổ phiếu mà mình chưa hiểu rõ về nó?
Đây cũng chính là mục
đích của cuốn sách này: Giúp bạn lựa chọn những loại cổ phiếu phù hợp nhất với
mục tiêu đầu tư. Khi áp dụng các chiến lược lựa chọn cổ phiếu mà chúng tôi đưa
ra, bạn sẽ ngạc nhiên vì có rất nhiều cổ phiếu đáp ứng được mục tiêu và phong
cách của bạn. Điều bạn cần làm là hoàn thiện chiến
lược lựa chọn để chỉ đầu tư vào những cổ phiếu hàng đầu.
Chiến lược lựa chọn cổ
phiếu hiệu quả nhất là chúng ta sử dụng các công cụ tìm kiếm trực tuyến có khả
năng sàng lọc với những tiêu chí phản ánh rõ các mục tiêu. Như vậy, dữ liệu về
tất cả các loại cổ phiếu sẽ được sàng lọc và chỉ những cổ phiếu đáp ứng được
các mục tiêu mới lọt qua. Việc này cũng tương tự như dịch vụ mai mối. Trong hồ
sơ mai mối, yêu cầu địa lý được ghi cụ thể: đối tượng phải sống cách nhà bạn
trong bán kính 2 km. Như vậy, những ứng viên không phù hợp về khoảng cách địa
lý sẽ bị loại ra. Tương tự như vậy, khi sàng lọc tìm kiếm cổ phiếu, bạn có thể
quy định tỷ số P/E tối đa là 30 để loại bỏ những cổ phiếu được đánh giá quá
cao. Khi công cụ tìm kiếm càng tinh vi, mức độ chính xác càng cao, bạn sẽ càng
muốn đưa ra nguyên tắc cho các tiêu chuẩn của mình. Chẳng hạn, bạn có thể tìm kiếm
cổ phiếu có tỷ số P/E thấp nhất trong những cổ phiếu có P/E tối đa là 20; hoặc
tìm đối tượng sống gần nhà bạn nhất trong những đối tượng sống cách nhà bạn 2
km. Loại công cụ tìm kiếm này sử dụng phương pháp “Sàng lọc tuyệt đối” và
“lôgic mờ”.
Sàng lọc tuyệt đối và Lôgic mờ
Trên mạng Internet, người
sử dụng thường dùng hai phương pháp tìm kiếm cổ phiếu để sàng lọc là “Sàng lọc
tuyệt đối” và “Lôgic mờ”. Với phương pháp sàng lọc tuyệt đối, người ta tạo ra một
sàng lọc để loại bỏ những cổ phiếu cao hơn số tối đa hoặc thấp hơn số tối thiểu.
Chẳng hạn, bạn tạo ra một bộ sàng lọc có thể loại bỏ những cổ phiếu có tỷ số
P/E thấp hơn 20 hoặc những cổ phiếu có tỷ số P/E cao hơn 25. Còn công cụ tìm kiếm
sử dụng phương pháp lôgic mờ “tính điểm” mỗi loại cổ phiếu dựa trên các tiêu
chí dưới dạng câu hỏi, sau đó soạn ra một danh sách những cổ phiếu có điểm cao
nhất và thấp nhất. Chẳng hạn, bạn có thể chọn những cổ phiếu có tỷ lệ tăng trưởng
doanh thu cao nhất và xếp chúng theo thứ tự thấp dần. Các công cụ tìm kiếm sử dụng
sự kết hợp giữa phương pháp sàng lọc tuyệt đối và lôgic mờ càng tinh vi bao
nhiêu, càng giúp bạn lựa chọn chính xác và chắc chắn những cổ phiếu có điểm cao
nhất hay thấp nhất bấy nhiêu.
Việc tạo ra một công cụ
sàng lọc không quá khó, ngay cả khi bạn có hàng trăm tiêu chuẩn cần phải lựa chọn.
Tất cả những gì bạn cần làm là trình bày các mục tiêu đầu tư của bạn dưới dạng
câu hỏi hay bộ câu hỏi. Chẳng hạn, một nhà đầu tư tăng trưởng có thể đặt câu hỏi:
Những loại cổ phiếu nào có khả năng đạt mức tăng trưởng doanh thu kỳ vọng trong
tương lai cao nhất? Một nhà đầu tư giá trị lại muốn biết: Hiện tại, loại cổ phiếu
nào có mức tăng trưởng cao nhưng tỷ số P/E thấp nhất đang được bán? Trong khi
đó, một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng lại đặt ra câu hỏi: Trong ba tuần qua,
loại cổ phiếu nào có đà tăng trưởng cao nhất? Một nhà đầu tư top-down sẽ bắt đầu
với các câu hỏi: Những ngành nào đang dẫn đầu hiện nay? Những cổ phiếu nào tốt
nhất trong ngành đó? Và, bất cứ nhà đầu tư nào cũng có thể đặt câu hỏi: Loại cổ
phiếu nào được giao dịch nội bộ nhiều nhất?
Bạn có thể trình bày tất
cả các tiêu chí dưới dạng những câu hỏi chung như thế. Như vậy, tất cả những gì
bạn cần làm là lựa chọn một bộ sàng lọc để tìm ra loại cổ phiếu đáp ứng tốt nhất
yêu cầu của mình. Chúng ta sẽ thảo luận những chiến lược cụ thể trong từng
chương, nhưng nếu bạn đang thiết lập cho riêng mình một chương trình nghiên cứu
thì việc nêu khái quát mục tiêu dưới dạng câu hỏi đơn giản sẽ rất có ích.
Đánh giá danh sách cổ phiếu
Sau khi tiến hành nghiên
cứu, bạn đã có thể đưa ra một danh sách tuyển chọn gồm 20-25 loại cổ phiếu. Dĩ
nhiên, bạn không thể mua tất cả loại cổ phiếu này. Bạn cần rút gọn thành một
danh sách ngắn, chỉ gồm bốn đến năm ứng viên ưu tú nhất. Nếu muốn, bạn có thể
mua cả bốn, năm loại cổ phiếu đó. Nếu có một bộ sàng lọc tốt, bạn sẽ dễ dàng
tìm được những cổ phiếu tốt. Nếu nhanh chóng loại được những cổ phiếu ít tiềm
năng, tỷ lệ thắng cuộc của bạn sẽ gia tăng đáng kể.
Để đánh giá chính xác
danh sách cổ phiếu, bạn cần xem xét biểu đồ của từng loại cổ phiếu, lịch sử
phát triển công ty, dự đoán doanh thu và các báo cáo khác (những thông tin này
đều có trên mạng). Ngoài ra, bạn cần trả lời các câu hỏi sau:
• Đà tăng trưởng của cổ phiếu đó có dấu hiệu tăng hay giảm?
• Trong xu hướng dài hạn, mức giá hiện tại của cổ phiếu
đó sẽ thay đổi ra sao?
• Giá cổ phiếu đó giảm mạnh, tăng nhanh hay dao động
tương đối ổn định?
•
Những
cổ phiếu nào trong danh sách của bạn có tỷ lệ tăng doanh thu cao nhất trong năm
năm?
•
Trong
dự đoán của các nhà phân tích, có dấu hiệu thay đổi tích cực hay tiêu cực nào của
doanh thu dự kiến không?
• Gần đây, có điều gì gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
đến doanh thu không?
•
Tỷ
số P/E của công ty so với tỷ số P/E trung bình của ngành và chỉ số S&P 500
như thế nào?
•
Có
bao nhiêu người khuyên bạn mua cổ phiếu đó? Bao nhiêu người khuyên bạn giữ hoặc
bán cổ phiếu đó?
• Có bao nhiêu nhà phân tích đưa ra dự đoán?
• Có bao nhiêu tin tức tốt hay xấu gần đây về công ty?
• Thành viên công ty có mua hay bán cổ phiếu đó không?
• Nhóm ngành của cổ phiếu đó đang hoạt động thế nào?
Khi loại bỏ những cổ phiếu
không đáp ứng được những đòi hỏi trên, bạn sẽ có một danh sách cô đọng gồm các
loại cổ phiếu phù hợp nhất với phong cách đầu tư của mình. Điều đó sẽ giúp bạn
an tâm hơn.
Dù bạn có tiêu tốn nhiều
thời gian hay tuyển chọn và đánh giá cẩn thận các loại cổ phiếu đến mức nào, bạn
vẫn có thể mắc sai lầm. Ngay cả các nhà đầu tư tài giỏi nhất cũng không tránh
khỏi điều đó. Đôi khi, cổ phiếu hoạt động không hiệu quả là do những vấn đề
trong ngành hay thay đổi của công ty. Bạn cũng có thể đánh giá sai một dấu hiệu.
Đôi lúc, bạn có thể bị công ty đánh lừa, như trường hợp của Tập đoàn năng lượng
Enron. Dù nguyên nhân là gì đi chăng nữa, sai lầm trong quá trình lựa chọn và
đánh giá vẫn là lý do để chúng ta cần đến bước thứ hai trong quy trình đầu tư.
BƯỚC 2: THỜI ĐIỂM MUA VÀO VÀ BÁN RA
Chiến lược mua vào và bán
ra đóng vai trò quan trọng trong một vụ đầu tư thành công. Mục tiêu của chiến
lược mua vào là mua loại cổ phiếu có xu hướng tăng giá và tránh xa những cổ phiếu
có xu hướng giảm giá theo một mô hình cơ bản trong thời gian dài. Mục tiêu của
chiến lược bán ra là bán cổ phiếu vào thời điểm bắt đầu kết thúc xu hướng tăng
hay ít nhất là trước khi cổ phiếu giảm mạnh.
Các mô hình cơ bản
Một loại cổ phiếu tuân
theo mô hình cơ bản khi nó được giao dịch với một biên độ biến động giá hẹp trong
một khoảng thời gian dài. Chẳng hạn như trong biểu đồ 2.1, giá cổ phiếu của Tập
đoàn tài chính AmeriCredit duy trì ở mức 34-36 đô la trong khoảng thời gian từ
giữa đến cuối tháng một. Mô hình cơ bản được hình thành do sự cân bằng giữa
cung (của người bán) và cầu (của người mua). Cổ phiếu sẽ chỉ thoát khỏi mô hình
cơ bản khi số người mua vượt quá số người bán (hướng tích cực) hay khi số người
bán vượt quá số lượng người mua (hướng tiêu cực). Các nhà đầu tư thường không
thích mô hình cơ bản, nhưng mô hình cơ bản theo hướng tích cực là dấu hiệu tốt
để mua vào.
Bạn không thể xác định
chính xác thời điểm bắt đầu và kết thúc của một xu hướng. Do đó, bạn phải bằng
lòng với việc làm sao để đạt được mức lợi nhuận lớn và nhất nhanh nhất có thể.
Tốc độ đạt lợi nhuận phụ thuộc vào việc bạn là nhà đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Nếu là nhà đầu tư ngắn hạn, bạn cần sử dụng các chiến lược ngắn hạn để nắm bắt
cơ hội mua cổ phiếu gần đạt mức giá thấp trong thời gian ngắn. Cổ phiếu sẽ tăng
giá trong một khoảng thời gian và bạn sẽ bán chúng khi giá tăng đến đỉnh. Các
chiến lược dài hạn sẽ không chú ý đến những xu hướng ngắn hạn và chỉ phát tín
hiệu bán khi xu hướng tăng giá trong dài hạn sắp chấm dứt.
Tại sao chúng ta lại quyết
định bán dựa trên sự thay đổi xu hướng? Nguyên nhân là, chúng ta không biết xu
hướng này diễn ra trong thời gian ngắn hay dài. Cổ phiếu này có thể giảm giá
trong khoảng thời gian dài và mất giá đến 50% hoặc hơn thế nữa. Chúng ta không
có cách nào biết được chiều hướng sa sút này sẽ diễn ra trong bao lâu và ở mức
độ nào. Vì thế, dựa trên những công cụ dự báo trong ngắn hạn hoặc dài hạn,
chúng ta sẽ bán ra để tránh thua lỗ lớn. Các nghiên cứu cho thấy, tránh thua lỗ
lớn là nguyên nhân chính xác nhất và duy nhất của việc bán ra.
Cổ phiếu của Tập đoàn tài
chính AmeriCredit bắt đầu có xu hướng tăng giá trong dài hạn từ cuối tháng 11
và kết thúc vào đầu tháng 8 năm sau, đẩy giá cổ phiếu từ 21 đô la lên 61 đô la.
Trong thời gian này, có ba xu hướng ngắn hạn riêng biệt, được thể hiện qua đường
xu hướng,đã tạo nhiều cơ hội lớn cho các nhà đầu tư ngắn hạn.
Trong biểu đồ 2.1,
AmeriCredit có một xu hướng tăng dài hạn gồm ba xu hướng tăng ngắn hạn gộp lại.
Nhìn vào biểu đồ, bạn có thể thấy khi chúng ta nói về việc sử dụng các tín hiệu
mua vào và bán ra, chúng ta không nói đến những cổ phiếu đang mua vào bán ra
hàng ngày, hàng tuần hay thậm chí là hàng tháng. Tháng 11 hay tháng 1/2000, nhà
đầu tư dài hạn sẽ mua cổ phiếu của AmeriCredit với mức giá chưa đến 20 đô la/cổ
phiếu và giữ nó đến cuối tháng 7 hoặc tháng 8/2001, rồi bán ra với mức giá từ
50-60 đô la. Trong khi đó, nhà đầu tư ngắn hạn sẽ mua và bán cổ phiếu ba lần, cố
gắng kiếm lời nhiều nhất có thể theo ba xu hướng tăng giá ngắn hạn trên biểu đồ.
Đường xu hướng được vẽ
sau khi mọi việc xảy ra. Nhiều nhà chuyên môn nhìn vào sự gẫy khúc của các đường
xu hướng để dự báo việc mua vào và bán ra. Còn một số người khác lại sử dụng
các công cụ dự báo dấu hiệu thay đổi của các xu hướng. Có hàng chục, nếu không
muốn nói là hàng trăm các công cụ dự báo như vậy. Một số công cụ thích hợp với
biến động trong ngắn hạn, nhưng một số khác lại phù hợp với biến động dài hạn.
Một số công cụ báo hiệu chính xác trong thị trường giá lên, nhưng một số khác lại
báo hiệu chính xác trong thị trường giá xuống. Việc nghiên cứu sâu các công cụ
dự báo này nằm ngoài phạm vi cuốn sách. Tất cả những gì chúng ta cần biết là mục
tiêu chính của những công cụ dự báo là loại bỏ cảm xúc ra khỏi quá trình đầu
tư.
Việc chọn thời điểm mua
vào và bán ra rất quan trọng. Điều đó không chỉ bảo vệ chúng ta khi quyết định
lựa chọn một cổ phiếu ít tiềm năng mà còn đảm bảo lợi nhuận cho chúng ta khi lựa
chọn một loại cổ phiếu tốt. Đôi lúc, chúng ta nên bán cổ phiếu sớm bởi vì có lợi
nhuận vẫn luôn tốt hơn là không có chút lãi nào hay tồi tệ hơn nữa là thua lỗ.
Mục đích chính của chúng ta là tránh các khoản thua lỗ chắc chắn xảy ra khi một
cổ phiếu giảm giá 70, 80, 90% hay hơn thế. Điều này đã xảy ra với rất nhiều loại
cổ phiếu năm 2000 hay 2001 và không chỉ dừng lại ở những công ty kinh doanh mạng.
Các tập đoàn lớn như Tập đoàn cung cấp các thiết bị viễn thông và giải pháp mạng
Cisco, Tập đoàn viễn thông Nortel và Tập đoàn tài chính Enron đã sụp đổ cùng với
các công ty kinh doanh trên mạng như Amazon.com và Yahoo!.
Việc thừa nhận sai lầm
luôn rất khó. Chính vì vậy, chúng ta thường trì hoãn, cầu nguyện và hy vọng cổ
phiếu sẽ hồi phục trở lại. Mọi chuyện còn trở nên tồi tệ hơn nếu chúng ta hành
động theo cảm xúc: mua thêm khi cổ phiếu đó tiếp tục giảm giá. Sự phục hồi của
cổ phiếu nhiều khi là điều không thể. Chúng ta thường mua cổ phiếu với giá 10
đô la và bán đi khi giá lên 12 hoặc 15 đô la đơn giản chỉ để kiếm lời nhanh
chóng. Rồi sau đó, chúng ta cảm thấy tiếc khi nó tăng thêm 20 điểm nữa. Nhưng nếu
chúng ta nắm giữ cổ phiếu đó quá lâu, chờ đợi nó tăng từ 10 lên 20 đô la, nhưng
sau đó, nó lại trở lại mức giá 10 đô la hoặc thấp hơn thế thì đó là một sai lầm
lớn. Chúng ta cần bán ra đúng thời điểm và chúng ta chỉ có thể biết được thời
điểm đó bằng phương pháp tính toán thời điểm.
Thời điểm bán ra hay mua
vào để giảm bớt thua lỗ hoăc thu lợi không khó nhận biết như chúng ta nghĩ. Giá
cổ phiếu tăng và giảm, hồi phục và tụt dốc, chạy ngoằn ngoèo trên biểu đồ vì những
lý do rất hợp lý. Cổ phiếu tăng giá là do cầu lớn hơn cung. Đó là cách nhận định
về cổ phiếu đơn giản nhưng chính xác. Thời điểm một cổ phiếu đang giảm giá bắt
đầu hồi phục là khi có một yếu tố nào đó xuất hiện, chấm dứt thời kỳ bán ra ồ ạt.
Khi tất cả những người muốn bán cổ phiếu đều dừng lại và không còn người nào muốn
bán nữa thì cổ phiếu đó hoàn toàn có thể phục hồi.
Tương tự như vậy, cổ phiếu
đang tăng giá bắt đầu dừng lại và giảm giá khi mức độ ưa chuộng dành cho nó bão
hòa. Không ai muốn mua với mức giá hiện tại và việc mua sẽ dừng lại. Không có
thêm người mua, cổ phiếu mất đà tăng trưởng và bắt đầu giảm giá mạnh. Mọi chuyện
diễn ra rất đơn giản. Thời điểm cổ phiếu tăng giá hay giảm giá đều dựa trên những
lý do hợp lý.
Người ta đã thiết kế rất
nhiều công cụ dự báo, nhưng vẫn chưa có công cụ dự báo hay phương pháp giao dịch
nào có thể xác định chính xác điểm bắt đầu hay kết thúc của một xu hướng. Nhiều
công cụ dự báo hoạt động dựa trên đường MA . Nói đơn giản, nếu một cổ phiếu
đang đi lên, tín hiệu mua được phát ra khi đồ thị cổ phiếu cao hơn trị giá
trung bình chuyển vận. Còn nếu một cổ phiếu đang đi xuống, tín hiệu bán được
phát ra khi nó thấp hơn giá trị trung bình chuyển vận. Công cụ này sẽ phát ra
nhiều tín hiệu mua và bán. Do đó, không có nhà đầu tư khôn ngoan nào dám tùy tiện
sử dụng nó. Tuy nhiên, các phương pháp dự báo đa chiều phức tạp lại được xây dựng
từ những công cụ dự báo đơn giản như vậy.
Công cụ dự báo hoàn thiện
nhất chỉ có thể được xây dựng bởi những người có nhiều kinh nghiệm, có kiến thức
uyên bác và đã được thử nghiệm với hàng nghìn loại cổ phiếu trong nhiều năm.
Và đến nay, một phương
pháp giao dịch hoàn hảo vẫn chưa ra đời. Một phương pháp giao dịch không thể
xác định chính xác mức đáy để chúng ta mua vào hoặc mức đỉnh để bán ra. Tuy
nhiên, việc tính toán thời điểm sẽ giúp chúng ta chọn chính xác khi nào nên mua
cổ phiếu có tiềm năng tăng giá và khi nào nên bán cổ phiếu có nguy cơ giảm giá.
Trong “Câu chuyện về hai loại cổ phiếu”, phần Lời mở đầu, chúng tôi đã đề cập đến
nhu cầu cấp thiết phải có một phương pháp tính toán thời điểm tăng lợi nhuận ở
MSCA và giảm thua lỗ ở VIGN, bởi vì đôi khi, cảm xúc có thể khiến chúng ta lầm
đường lạc lối. Trong Chương 4, chúng tôi sẽ nói rõ hơn về phương pháp của mình.
Chúng tôi sẽ đề cập đến
những phương pháp và chiến lược tính toán thời điểm cụ thể trong mỗi phong cách
đầu tư chính. Dù phong cách của bạn là gì, thời điểm luôn đóng vai trò quan trọng
trong quy trình đầu tư.
BƯỚC 3: QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ
Khi đã lựa chọn được một
số cổ phiếu để mua và một công cụ dự báo thời điểm thích hợp, bạn cần tự trả lời
các câu hỏi sau:
• Tại một thời điểm nhất định, tôi nên nắm giữ bao nhiêu
loại cổ phiếu?
• Tôi nên nắm giữ cổ phiếu của bao nhiêu nhóm ngành?
• Tôi có nên mua các loại cổ phiếu quốc tế không?
•
Tôi
nên đầu tư toàn bộ hay giữ lại một phần tiền mặt? Nếu làm vậy, tôi phải đầu tư
bao nhiêu?
•
Tôi
có nên đầu tư vào trái phiếu không? Nếu có, tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu là bao
nhiêu phần trăm trong danh mục đầu tư?
Câu trả lời cho những câu
hỏi trên đều phụ thuộc vào chiến lược quản lý danh mục đầu tư của bạn.
•
Xác định quy mô của danh mục đầu tư: Hầu hết các chuyên gia về quản lý
danh mục đầu tư đều khuyên rằng trong bất kỳ thời điểm nào hãy giữ từ 5-20 loại
cổ phiếu trong danh mục đầu tư. Chúng tôi cho rằng, 10-15 loại cổ phiếu là hợp
lý. Nhưng số lượng cổ phiếu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có
phong cách đầu tư, lượng tiền đầu tư và thời gian quản lý danh mục đầu tư. Tốt
nhất là bạn nên sở hữu từ hai loại cổ phiếu trở lên. Hãy tin vào quyết định lựa
chọn của mình, coi nó như sự lựa chọn của các chuyên gia, những người có xác suất
sai chỉ khoảng 15-30%. Theo lý thuyết xác suất đơn giản, nếu bạn sở hữu hai loại
cổ phiếu, khả năng thất bại của bạn chỉ là 10% so với khả năng thất bại 50 % khi mua một cổ phiếu;
•
Đa dạng hóa ngành và quốc gia: Đa dạng hóa các nhóm ngành là một việc
làm khôn ngoan. Sự xuất hiện của các sự kiện bất ổn khiến nhiều nhà đầu tư
không còn yêu thích ngành mà mình đã đầu tư nữa. Bằng chứng là sự sụp đổ của
các công ty kinh doanh trực tuyến đầu năm 2000. Đó không phải là chuyện hiếm có
và đặc biệt, vì những cuộc khủng hoảng tương tự từng xảy ra trong thị trường đầu
cơ giá xuống đối với cổ phiếu của các ngành ngân hàng, bất động sản, công nghệ
sinh học, sản xuất khoai tây chiên và công nghiệp phim ảnh. Do vậy, bạn cần đa
dạng hóa nhóm ngành. Bạn sở hữu bao nhiêu loại cổ phiếu thì có bấy nhiêu nhóm ngành.
Bạn cũng có thể đa dạng
hóa danh mục đầu tư bằng cách mua cổ phiếu quốc tế. Mặc dù đây là điều không bắt
buộc nhưng việc đa dạng hóa vượt ra khỏi biên giới quốc gia mang lại nhiều lợi
ích. Nếu kinh tế Mỹ hoạt động kém hiệu quả trong khi nền kinh tế các nước khác lại
hoạt động tốt thì rõ ràng chúng ta nên đầu tư vào những nền kinh tế đó (giả định
bạn am hiểu về chúng). Như chúng tôi sẽ đề cập trong Chương 10, cách đầu tư
toàn cầu dễ dàng nhất là mua những cổ phiếu có liên quan đến các nền kinh tế nước
ngoài thông qua các quỹ giao dịch trao đổi (ETFS) hay quỹ kín.
•
Phân bổ tiềm lực: Bên cạnh việc đa dạng hóa, các nhà đầu
tư cần trả lời hai câu hỏi sau: Tôi nên phân bổ vốn đầu tư như thế nào? Tôi nên
đầu tư toàn bộ hay giữ lại một phần tiền mặt? Nhiều người rất muốn đầu tư hết
tiềm lực nhưng chúng tôi cho rằng nên để lại một chút tiền mặt trong suốt giai
đoạn thị trường đạt giá trị cao hay cực điểm. Trước hết, điều đó sẽ bảo vệ bạn
khỏi sự sụt giảm giá cổ phiếu không thể tránh được và thứ hai, bạn có tiền mua
sắm. Đầu năm 2000, các nhà đầu tư bắt đầu tăng lượng tiền mặt. Khi chỉ số
Nasdaq tăng cực đại (xem Biểu đồ 2.2), họ sẽ tránh được một số hoặc tất cả các
tác động xấu của cuộc khủng hoảng và họ cũng có tiền mặt để mua vào những cổ
phiếu bị giảm giá mạnh sau cuộc khủng hoảng.
Không nên đầu
tư vào trái phiếu
Nhiều người thường khuyên bạn hãy sử
dụng một tỷ lệ phần trăm nhất định tư để đầu tư vào trái phiếu hay cổ phiếu có
doanh thu cố định. Bạn nên quyế này dựa trên mục tiêu, độ tuổi, khả năng chịu đựng
rủi ro của chính mình vàtrong quỹ đầu t định vấn đề lời khuyên của các nhà hoạch
định tài chính và chuyên gia. Nhưng nếu không thấy trước được thời điểm thích hợp
mua và bán trái phiếu, bạn cần suy nghĩ thêm về lời khuyên này. Theo nhiều cuộc
nghiên cứu, từ năm 1920, việc nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu đáng kể có doanh thu cố
định luôn mang lại kết quả tốt. Dĩ nhiên chúng tôi đang nói về trái phiếu Chính
phủ dài hạn có kỳ hạn thanh toán từ 10-30 năm chứ không phải là những cổ phiếu
ngắn hạn có doanh thu ổn định như chứng chỉ tiền gửi (CDs).
Đa số những thời điểm bạn
muốn mua cổ phiếu có doanh thu ổn định dài hạn là hoàn toàn sai lầm. Chẳng hạn,
đầu năm 1994, thị trường cổ phiếu phải đối mặt với nhiều rắc rối và trái phiếu
có tỷ lệ lợi tức khá thấp, chỉ khoảng 5-6%. Giữa và cuối năm 1994, Cục Dự trữ
Liên bang quyết định tăng tỷ lệ lãi suất. Khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại của
trái phiếu dài hạn giảm bởi các nhà đầu tư muốn mua những trái phiếu mới có tỷ
lệ lãi suất cao. Nếu bạn nắm giữ trái phiếu trong 30 năm, bạn sẽ không thua lỗ,
nhưng nếu bạn muốn bán những trái phiếu này để đầu tư vào thị trường cổ phiếu
đang hoạt động mạnh vào năm 1995, điều ngược lại chắc chắn sẽ xảy ra.
Trong cuốn sách này, vì tập
trung vào cổ phiếu thường, nên chúng tôi sẽ không đề cập đến cổ phiếu có doanh
thu cố định và trái phiếu. Mục tiêu của chúng tôi là giúp bạn tìm được phong
cách đầu tư và trang bị cho bạn những chiến lược và phương pháp hiệu quả để lựa
chọn cổ phiếu, thời điểm mua vào, bán ra và quản lý danh mục đầu tư. Chương tiếp
theo là nội dung tổng quan về các phong cách đầu tư.
CHƯƠNG 3. Tổng quan về các phong cách
đầu tư
Từ phong cách được sử dụng
trong rất nhiều lĩnh vực như nghệ thuật, kiến trúc, nội thất, văn học, âm nhạc,
lối sống, v.v… Từ “phong cách” cũng có thể đi kèm với từ “đầu tư”. Khi nói về
phong cách đầu tư, chúng tôi muốn nói đến các mục tiêu đầu tư khác nhau và các
cách lựa chọn cổ phiếu đặc biệt để phân biệt nhóm nhà đầu tư này với nhóm khác.
Chẳng hạn, nhà đầu tư A chỉ mua những cổ phiếu có tỷ lệ tăng doanh thu cao nhất
mà không để ý đến giá của chúng, trong khi đó, nhà đầu tư B muốn mua những cổ
phiếu có tiềm năng tăng trưởng giống như trên, nhưng chỉ mua những cổ phiếu giá
thấp hay không còn được thị trường ưa thích. Do xu hướng thiên về những loại cổ
phiếu nhất định và những đặc điểm tính cách mà chúng ta sẽ nói rõ hơn ở phần
sau, nhà đầu tư A được coi là nhà đầu tư tăng trưởng, còn nhà đầu tư B là nhà đầu
tư giá trị.
Có một phong cách đầu tư
tốt hơn là không có phong cách nào. Tại sao vậy? Bởi phong cách có ảnh hưởng rất
lớn đến quy trình đầu tư. Rất nhiều nhà đầu tư đã từng theo đuổi một phong cách
đầu tư và những nhận xét của họ có thể khiến cổ phiếu tăng lên hay giảm xuống.
Nếu bạn lựa chọn cổ phiếu tùy tiện bằng những phương pháp của riêng mình thì những
cổ phiếu đó có thể sẽ không bao giờ tăng giá, trừ khi có nhiều người cũng phát
hiện ra cổ phiếu đó và sử dụng phương pháp tương tự hay giống hệt như của bạn.
Các phong cách đầu tư được
xây dựng dựa trên đặc điểm tính cách và tâm lý khác nhau. Theo lẽ tự nhiên, mọi
người thường hướng về một phong cách hay tự động tìm ra phong cách – dựa trên
tính cách cơ bản của mình. Chẳng hạn, nếu bạn thường xuyên lo lắng về sự sụt giảm
giá cổ phiếu, bạn sẽ không thể trở thành nhà đầu tư tăng trưởng hoặc theo đà
tăng trưởng. Những cổ phiếu tăng trưởng hay theo đà tăng trưởng có thể đảo chiều
đột ngột và nhanh chóng, do đó, mức độ rủi ro của chúng cao hơn những loại cổ
phiếu thuộc phong cách khác. Nhà đầu tư không thích sự rủi ro sẽ cảm thấy thoải
mái hơn với phong cách đầu tư cơ bản hay đầu tư giá trị. Ngược lại, nếu bạn muốn
giao dịch liên tục và không đủ kiên nhẫn chờ đợi kết quả trong vài tháng, một
năm hoặc hơn thế nữa, bạn hãy lựa chọn phong cách đầu tư tăng trưởng hay đà
tăng trưởng. Bạn còn phải xem xét nhiều yếu tố khác khi lựa chọn phong cách đầu
tư như sức mạnh tinh thần, thời gian quản lý danh mục đầu tư và khả năng đầu tư
nhưng chúng tôi cần nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc lựa chọn phong
cách đầu tư phù hợp với cá tính của bạn. Nếu không có phong cách đầu tư, việc đầu
tư sẽ giống như việc cố gắng đi bộ năm phút trong một đôi giầy chật, bạn sẽ rất
khó chịu sau mỗi bước đi.
BỐN PHONG CÁCH ĐẦU TƯ CHÍNH
Có bốn phong cách đầu tư
chính: tăng trưởng, giá trị, đà tăng trưởng và kỹ thuật. Chúng tôi coi đây là
những phong cách đầu tư chính bởi rất nhiều nhà đầu tư sử dụng và coi chúng là
kim chỉ nam trong đầu tư cổ phiếu.
Đầu tư tăng trưởng: Rủi ro cao/Lợi nhuận cao
Đầu tư tăng trưởng là một
trong những phong cách đầu tư được sử dụng phổ biến nhất. Các nhà đầu tư tăng
trưởng tìm kiếm những công ty có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu lớn và lịch sử
tăng trưởng bền vững. Họ sẵn lòng trả bất kỳ giá nào để lên được con tàu tăng
trưởng cao và ở trên đó cho đến khi thu được lợi nhuận nhờ tăng trưởng trong
dài hạn. Các nhà đầu tư tăng trưởng sử dụng hầu hết thời gian để lựa chọn cổ
phiếu. Khi đã lựa chọn được cổ phiếu, họ chỉ cần đánh giá chúng một quý một lần
để đảm bảo doanh thu vẫn đang đi đúng hướng.
Các nhà đầu tư tăng trưởng
cần có khả năng chịu đựng rủi ro cao. Bởi các cổ phiếu tăng trưởng bị tác động
mạnh hơn các cổ phiếu có tỷ số P/E thông thường nên chúng dễ bị đảo chiều khi
những sự kiện đã được nêu trong Chương 1 tác động lên cổ phiếu bằng cách làm
thay đổi nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Trường hợp
điển hình là Tập đoàn Cisco, một trong những công ty hàng đầu thế giới hoạt động
trong ngành được coi là năng động nhất những năm 1990 – thiết bị mạng.
Trong suốt thập niên
1990, khi tỷ lệ tăng doanh thu trung bình là 50-100%/năm, tỷ số P/E của Cisco xấp
xỉ 30. Điều này khiến cổ phiếu của công ty trở nên rất hấp dẫn. Cisco là công
ty hàng đầu trong suốt giai đoạn này và tạo ra một khoản lợi nhuận hơn 50%
trong năm năm liên tiếp. Cuối những năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng của Cisco giảm
xuống gần 30%, nhưng đó cũng là giai đoạn bất ổn của các công ty kinh doanh dịch
vụ mạng. Do đó, thay vì giảm, P/E của Cisco lại tăng lên khoảng 60-100. Thực chất,
trước khi giảm, P/E của Cisco bằng 1,5 lần tỷ lệ tăng trưởng và sau khi giảm,
P/E đã tăng gấp đôi tỷ lệ tăng trưởng. Quả bong bóng Internet đã nổ tung trước
khi các nhà đầu tư nghiên cứu kỹ các cổ phiếu kinh doanh mạng, nhưng việc Cisco
lâm vào đợt sụt giảm nghiêm trọng và nhanh chóng này chỉ là dấu hiệu cho thấy sự
tăng trưởng được cường điệu hóa của ngành này đang dần mất đi.
Ví dụ này không nhằm mục
đích khuyên bạn tránh xa đầu tư tăng trưởng. Đôi khi, khoản lợi nhuận lớn nhất
mà các nhà đầu tư kiếm được là nhờ cổ phiếu tăng trưởng cao. Song, vì tỷ số P/E
của các cổ phiếu này cũng rất cao nên nếu là nhà đầu tư tăng trưởng, bạn phải sẵn
sàng chấp nhận rủi ro và sử dụng các chiến lược bán ra hiệu quả.
Đầu tư giá trị: Săn lùng những món hời
Các nhà đầu tư giá trị là
những tay săn lùng kho báu. Họ không thích rủi ro và không thích trả đúng giá
cho bất kỳ món đồ nào. Thông thường, các nhà đầu tư giá trị sẽ mua những cổ phiếu
không còn được thị trường ưa thích do nguyên nhân chủ yếu là những sự kiện như
doanh thu giảm sút báo hiệu tốc độ tăng trưởng giảm; những rắc rối trong một
công ty hay một ngành; hay thậm chí là cảm giác cổ phiếu đó không còn năng động
như trước. Các nhà đầu tư khác thường mất lòng tin vào khả năng tăng trưởng của
công ty và khi chuyện đó xảy ra, giá cổ phiếu sẽ tụt dốc, P/E giảm và cổ phiếu
chuyển từ tăng trưởng thành giá trị.
Còn các nhà đầu tư giá trị
lại coi đó là một món hời. Họ sẵn sàng chấp nhận những cổ phiếu đó vì độ rủi ro
thấp hơn và họ sẵn sàng đánh cược rằng không chỉ doanh thu sẽ tăng mà niềm tin
của các nhà đầu tư cũng sẽ quay trở lại và tỷ số P/E cũng tăng nhanh chóng (xem
lại vai trò của tăng trưởng P/E ở Chương 1).
Tóm lại, nhà đầu tư giá
trị muốn thu về những khoản lợi nhuận giống như các nhà đầu tư tăng trưởng,
nhưng lại không muốn có nhiều rủi ro. Bạn có thể sẽ nghĩ, ai lại không muốn như
thế. Nhưng vấn đề là ở sự kiên nhẫn. Không phải ai cũng có thể kiên nhẫn chờ đợi
niềm tin của các nhà đầu tư phục hồi hay các cổ phiếu dưới giá trị khôi phục lại.
Có một cách giúp bạn chờ đợi lâu như vậy. Chúng ta sẽ nói đến vấn đề này trong
Chương 5. Các nhà đầu tư giá trị khôn ngoan có thể sử dụng chiến lược mua vào:
Thời điểm mua cổ phiếu là thời điểm mà sự đảo chiều sắp xảy ra và niềm tin của
các nhà đầu tư bắt đầu tăng.
Đầu tư theo đà tăng trưởng: Hãy hành động
Các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng thích hành động. Họ cố gắng sở hữu những cổ phiếu đang tăng trưởng
nhanh nhất trong những ngành phát triển vượt bậc nhất trên thị trường. Khi cổ
phiếu hay ngành đó phát triển chậm lại, họ chuyển sang những cổ phiếu tốt nhất
khác. Nói cách khác, họ giống như những vận động viên lướt sóng cưỡi lên những
con sóng cao nhất và càng lâu càng tốt, rồi kịp thời nhảy ra trước khi sóng
quăng họ vào đá.
Các cổ phiếu đang trên đà
tăng trưởng là những cổ phiếu được thị trường đặt niềm tin rất lớn. Giá trị của
chúng tăng cao và ngày càng tăng cao hơn. Nếu chọn đúng, cổ phiếu đang trên đà
tăng trưởng, lợi nhuận của bạn sẽ tăng nhanh nhất trong thời gian ngắn nhất. Nếu
chọn sai, bạn sẽ bị lỗ nhanh chóng và rất nặng nề. Rủi ro là mặt trái của đầu
tư theo đà tăng trưởng và có lẽ trong bốn phong cách đầu tư chính, phong cách
này có rủi ro lớn nhất. Khi đà tăng trưởng phụ thuộc vào lòng tin của các nhà đầu
tư, bạn hãy đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu có điều gì đó ảnh hưởng đến niềm
tin của nhà đầu tư hay nếu nhận thức về tiềm năng doanh thu của cổ phiếu hơi
chuyển hướng tiêu cực. Giá cổ phiếu vì thế có thể giảm nhanh và mạnh.
Chẳng hạn, nếu một công
ty đưa ra lời khuyến cáo về doanh thu hay nếu một nhà phân tích thông báo về đợt
suy thoái thì việc các cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng giảm 30-40% trong ngày
mở cửa tiếp theo là điều bình thường. Không có công cụ dự báo hay phương pháp kỹ
thuật nào có thể giúp bạn tránh được điều này. Những rủi ro như vậy diễn ra mọi
lúc, mọi nơi. Do đó, nếu bạn không chịu đựng được việc giảm giá mạnh và đột ngột,
bạn không nên trở thành nhà đầu tư cổ phiếu theo đà tăng trưởng.
Nếu có thể chấp nhận được
những rủi ro này, bạn cũng cần xem xét vấn đề thời gian quản lý danh mục đầu
tư. Vì sự cần thiết phải cảnh giác với những thay đổi hàng ngày của cổ phiếu và
ngành lựa chọn, cũng như sự cần thiết phải có những hành động mang tính quyết định
và kịp thời, đầu tư theo đà tăng trưởng là phương pháp đòi hỏi nhiều thời gian
nhất. Sẽ rất nguy hiểm nếu bạn lựa chọn một phong cách nhiều rủi ro nhưng lại
không có nhiều thời gian để quản lý. Nếu bạn học được cách quản lý tốt và phong
cách đầu tư theo đà tăng trưởng phù hợp với cá tính của bạn thì nó là phong
cách hay nhất và mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong bốn phong cách chính.
Đầu tư kỹ thuật: Một biểu đồ đáng giá bằng hàng nghìn
lời nói
Bất cứ phong cách đầu tư
nào cũng có thể tận dụng phép phân tích kỹ thuật. Trên thực tế, hầu hết các chiến
lược mua vào và bán ra đều được xây dựng dựa trên phép phân tích kỹ thuật. Điểm
khác biệt là các nhà đầu tư kỹ thuật chỉ sử dụng các phép phân tích kỹ thuật để
quyết định loại cổ phiếu nên mua và thời điểm mua và bán cổ phiếu. Các nhà đầu
tư kỹ thuật (còn được gọi là những nhà lập biểu đồ) coi biểu đồ cổ phiếu là
công cụ chính xác nhất để mua và bán cổ phiếu. Họ không quan tâm đến doanh thu
dự kiến của cổ phiếu, tỷ số P/E hay mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư. Nói
cách khác, họ không quan tâm đến bất kỳ khía cạnh nào của công ty. Phong cách đầu
tư kỹ thuật được giả định rằng tất cả những thông tin bạn cần biết về công ty
đã được phản ánh trong mức giá hiện tại của cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, các nhà
đầu tư chọn những mẫu biểu đồ thể hiện xu hướng tăng giá. Còn khi bán cổ phiếu,
họ tin tưởng vào những mẫu biểu đồ thể hiện xu hướng giảm sự tin tưởng của các
nhà đầu tư, khi đó, họ sẽ nhanh chóng bán ra.
Có rất nhiều phương
pháp đầu tư trong phong cách đầu tư kỹ thuật. Trong Chương 7, chúng tôi sẽ đề cập đến một số phương
pháp. Nhiều người cho rằng đầu tư theo đà tăng trưởng và đầu tư kỹ thuật tương
đối giống nhau. Trên thực tế, các nhà đầu tư kỹ thuật thường mua cổ phiếu đang
trên đà tăng trưởng, bởi mẫu biểu đồ của chúng thể hiện xu hướng tăng giá cổ
phiếu. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa nhà đầu tư theo đà tăng trưởng và
nhà đầu tư kỹ thuật. Các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng thường tìm kiếm những cổ
phiếu có nền tảng vững chắc, đặc biệt là dựa vào tiêu chí mức tăng doanh thu gần
đây cao và họ chỉ mua những cổ phiếu có đà tăng trưởng cao nhất. Còn các nhà đầu
tư kỹ thuật rất ít quan tâm đến tiềm năng doanh thu của công ty bởi họ cho rằng
mọi thứ cần biết về công ty đều được phản ánh trong giá cổ phiếu. Tuy nhiên, cả
hai nhà đầu tư này, đầu tư kỹ thuật và đầu tư theo đà tăng trưởng mua khá nhiều
cổ phiếu giống nhau. Do đó, rủi ro đối với nhà đầu tư kỹ thuật cũng giống như rủi
ro của nhà đầu tư theo đà tăng trưởng.
CÁC PHONG CÁCH PHỤ: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA PHONG CÁCH CHÍNH
Có rất nhiều phong cách đầu
tư bắt nguồn từ một phong cách chính hoặc là sự kết hợp của bốn phong cách
chính. Trong Chương 9, chúng tôi sẽ đưa ra năm phong cách phụ: đầu tư cơ bản, đầu
tư doanh thu, đầu tư chủ động, đầu tư kết hợp, và lướt sóng. Dưới đây, chúng
tôi sẽ nói qua về các phong cách này.
Đầu tư cơ bản
Gọi là đầu tư cơ bản là
vì các nhà đầu tư quan tâm chủ yếu đến các báo cáo tài chính và tình hình cơ bản
của công ty. Các nhà đầu tư cơ bản giống các nhà đầu tư giá trị ở chỗ cả hai đều
tìm kiếm những cổ phiếu dưới giá trị. Tuy nhiên, hai mẫu nhà đầu tư này phán
đoán về sự dưới giá trị lại khác nhau. Tại một số thời điểm, những cổ phiếu dưới
giá trị phải được phát hiện và được một số lượng các nhà đầu tư nhất định định
giá trên giá trị; nếu không, giá của nó sẽ không bao giờ tăng. Chỉ có một sự lựa
chọn duy nhất là mua toàn bộ công ty và thay đổi nó hoàn toàn. Đây là cách bậc
thầy về đầu tư giá trị Warren Buffett thường làm. Tuy nhiên, đối với những nhà
đầu tư riêng lẻ ở mức trung bình, đầu tư cơ bản chỉ có nghĩa là lựa chọn đầu tư
vào những công ty có tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách thấp, bảng cân đối tài sản
mạnh và không nhiều nợ.
Đầu tư doanh thu
Mục tiêu chính của đầu tư
doanh thu là doanh thu, chứ không phải là sự đánh giá giá cổ phiếu. Các nhà đầu
tư doanh thu, hay chính xác hơn là các nhà đầu tư doanh thu từ cổ phiếu, thường
tìm kiếm những công ty càng trả cổ tức cao càng tốt, miễn là cổ tức đó an toàn.
Vì thế, họ thường mua những cổ phiếu blue chip hay ít nhất là cổ phiếu của các
công ty lớn hơn, ổn định hơn, có danh tiếng hơn. Đầu tư doanh thu diễn ra trong
dài hạn với tỷ lệ rủi ro thấp và lợi nhuận không cao. Một phong cách tương tự
nhưng có tỷ lệ rủi ro cao hơn là phong cách tăng trưởng và doanh thu. Ở phong
cách này, một nhà đầu tư tìm kiếm những cổ phiếu được trả cổ tức, có tỷ lệ tăng
trưởng doanh thu cao và vì thế cổ tức tăng
lên.
Giao dịch chủ động
Giao dịch chủ động có mức
độ tiến hành giao dịch khá thường xuyên. Nó bao gồm giao dịch trong ngày, giao
dịch dài hạn, và giao dịch vị thế. Những người giao dịch trong ngày tiến hành rất
nhiều giao dịch mỗi ngày, mỗi tuần, hay mỗi tháng để tìm kiếm những khoản lợi
nhuận tương đối nhỏ trong mỗi vụ giao dịch. Họ chỉ sở hữu cổ phiếu trong chưa đầy
một ngày (thường chỉ vài phút hay vài giờ). Do đó, tên của họ được gắn với cụm
từ “giao dịch trong ngày”. Những người giao dịch dài hạn không tiến hành thường
xuyên như vậy. Họ tiến hành một vài giao dịch trong một tuần, và nắm giữ cổ phiếu
từ hai đến năm ngày. Còn các nhà giao dịch vị thế nửa là nhà đầu tư chủ động, nửa
lại là nhà đầu tư theo đà tăng trưởng hay đầu tư kỹ thuật: Họ có xu hướng tiến
hành một vài giao dịch trong một tháng và nắm giữ cổ phiếu trong khoảng thời
gian từ năm đến mười ngày hoặc lâu hơn. Ngoài những định nghĩa trên, còn có những
định nghĩa không ràng buộc và tùy ý khác.
Nói chung, các nhà đầu tư
theo phong cách giao dịch chủ động luôn tìm kiếm những đợt tăng ngắn hạn mà đối
với các nhà đầu tư hàng ngày thực sự, những đợt tăng này có thể xảy ra vài lần
một ngày đối với cùng một loại cổ phiếu. Từ quan trọng nhất ở đây là nhà giao dịch
chứ không phải nhà đầu tư. Những nhà giao dịch chủ động phải có tính kỷ luật
cao, sức chịu đựng rủi ro tốt, và có sự am hiểu thị trường cũng như các chiến
lược giao dịch cụ thể.
Đầu tư kết hợp
Trong đầu tư, việc ghép
ưu điểm lớn nhất của phong cách đầu tư này với phong cách đầu tư khác diễn ra rất
phổ biến và tạo ra cái mà chúng ta gọi là đầu tư kết hợp. Chẳng hạn, một nhà đầu
tư tăng trưởng thiếu kiên nhẫn với những khoản lợi nhuận mất nhiều thời gian có
thể áp dụng phong cách đầu tư theo đà tăng trưởng trong ngắn hạn cho những cổ
phiếu tăng trưởng cao. Một nhà đầu tư giá trị có thể đợi cho đến khi xuất hiện
dấu hiệu của đà tăng trưởng mới mua những chứng khoán dưới giá trị. Một nhà đầu
tư kỹ thuật có thể tập trung vào những ngành hay lĩnh vực hoạt động hiệu quả nhất
và coi bản thân mình là nhà đầu tư từ trên xuống dưới. Một nhà giao dịch trong
ngày không chấp nhận rủi ro có thể giảm bớt rủi ro bằng việc chỉ giao dịch một
số cổ phiếu blue chip.
Một nhà đầu tư kết hợp có
thể tạo ra một phong cách chỉ riêng mình có vừa vặn như một bộ quần áo may. Đây
là cách định nghĩa chính xác và phù hợp nhất với những nguyên tắc đã đặt ra.
Phong cách lướt sóng
Các phong cách đầu tư có
lúc thịnh lúc suy về mức độ phổ biến và tính hiệu quả, đặc biệt là đầu tư theo
đà tăng trưởng, đầu tư giá trị và đầu tư tăng trưởng. Trong suốt năm 1999, đầu
tư giá trị thất thế còn đầu tư theo đà tăng trưởng lại thịnh hành. Trong hơn
năm tháng cuối năm 1999 và 2000, chỉ số Nasdaq tăng nhanh chóng, khoảng 2000 điểm
khiến các nhà đầu tư ồ ạt chạy theo phong cách tăng trưởng. Sau khi mức tăng
bong bóng này vỡ tan vào mùa xuân năm 2000, các chứng khoán theo đà tăng trưởng
tụt dốc và không thể hồi phục nổi. Do đó, đầu tư giá trị lại bắt đầu trở nên hấp
dẫn. Trong suốt giai đoạn này, một nhà đầu tư có thể thay đổi phong cách dễ
dàng là nhà đầu tư theo đà tăng trưởng trong suốt thời kỳ hưng thịnh của các
công ty kinh doanh dịch vụ mạng nhưng sau đó nhanh chóng chuyển thành nhà đầu
tư giá trị khi thị trường chuyển hướng. Khi thời kỳ hưng thịnh của đầu tư tăng
trưởng quay trở lại, những nhà đầu tư nhanh chân nhất sẽ nhảy lên con tàu tăng
trưởng.
Chúng tôi gọi đây là
phong cách lướt sóng vì các nhà đầu tư liên tục chuyển từ phong cách này sang
phong cách khác, tùy theo việc hiện tại phong cách nào đang hoạt động tốt nhất.
Theo đuổi phong cách đang thịnh hành có khả năng đem lại lợi nhuận nhanh hơn và
cao hơn, nhưng phong cách lướt sóng cũng có những yêu cầu riêng. Nó đòi hỏi bạn
phải am hiểu cả ba phong cách trên và sự dụng chúng thành thạo. Điều này phức tạp
hơn chúng ta tưởng. Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ biết những phẩm chất
mà một nhà đầu tư giá trị cần có thường trái ngược hoàn toàn với những phẩm chất
cần có của nhà đầu tư theo đà tăng trưởng và nhà đầu tư tăng trưởng. Như chúng
ta biết, đầu tư tăng trưởng và theo đà tăng trưởng chứa đựng nhiều rủi ro hơn đầu
tư giá trị, do đó nếu bạn chủ yếu sử dụng phương pháp đầu tư giá trị, bạn có thể
gặp khó khăn khi chuyển sang hai phong cách
kia.
Phong cách lướt sóng đòi
hỏi bạn phải đầu tư rất nhiều thời gian để học tất cả các phong cách đầu tư, phải
có một tư duy linh hoạt để chuyển hướng liên tục, và sự tự tin đầu tư rất lớn.
Rõ ràng, đây không phải phong cách dành cho những người mới gia nhập thị trường.
VÀ PHONG CÁCH THẮNG CUỘC LÀ…
Bất cứ phong cách đầu tư
nào cũng có thể mang lại chiến thắng, bởi không có phong cách nào tốt nhất mà
chỉ có phong cách phù hợp nhất đối với bạn. Đến bây giờ chắc bạn đã hiểu vì sao
một cổ phiếu vừa có thể là cổ phiếu tăng trưởng, cổ phiếu giá trị, cổ phiếu
trên đà tăng trưởng hay cổ phiếu kỹ thuật vào những thời điểm khác nhau. Hãy
xem biểu đồ 3.1.
Trong năm 2001, cổ phiếu
của ACF có dấu hiệu của cổ phiếu giá trị, cổ phiếu tăng trưởng và cổ phiếu kỹ
thuật. Tháng 11 và 12/2000, cổ phiếu của ACF có những đặc điểm nổi bật của cổ
phiếu giá trị với tỷ lệ tăng doanh thu 38%, gấp năm lần tỷ số P/E và tiếp tục
duy trì giá trị trong năm tiếp theo. Tháng 4/2001, ACF xuất hiện trên truyền
hình với tư cách là cổ phiếu tăng trưởng cao có tỷ lệ tăng trưởng dự đoán năm
sau khoảng 64% và trong năm năm là 27%. Trên thực tế, nó tiếp tục là cổ phiếu
tăng trưởng cao cho đến khi diễn ra đợt sụt giảm vào đầu tháng 8/2001.
Mặc dù ACF không phải là
một cổ phiếu theo đà tăng trưởng chính thức, song từ biểu đồ trên, bạn có thể
thấy cổ phiếu này có ba đợt tăng trưởng cao trong ngắn hạn. ACF cũng mang những
đặc điểm của cổ phiếu kỹ thuật. Từ tháng 4-9, cổ phiếu này nhiều lần được chọn
là một trong năm cổ phiếu có mẫu biểu đồ đẹp nhất trong ngày. Lần đầu tiên cổ
phiếu này được chọn là vì mức giá đóng cửa của nó cao nhất từ trước đến nay và
khối lượng giao dịch cao gấp 1,5 lần ngày thường. Nhưng đến tháng 9, cổ phiếu đảo
chiều và giảm xuống còn 36 đô la, nhưng nó vẫn là cổ phiếu kỹ thuật cho đến khi
giá giảm mạnh xuống mức thấp nhất là 35 đô la.
Các nhà đầu tư tăng trưởng,
giá trị, đà tăng trưởng và kỹ thuật đều có thể thu được lợi nhuận lớn từ một loại
cổ phiếu cụ thể. Do đó, không có phong cách đầu tư nào là tối ưu. Thực tế, một
vài phong cách được nhiều nhà đầu tư ưa thích trong những điều kiện thị trường
khác nhau và vì thế nó hoạt động tốt và mang đến nhiều cơ hội hơn. Thị trường
ưa thích cổ phiếu tăng trưởng, cổ phiếu theo đà tăng trưởng và cổ phiếu giá trị,
nhưng cổ phiếu kỹ thuật lại có vẻ phát triển mạnh trong bất kỳ thị trường nào.
Do đó, chúng ta không nên đặt ra câu hỏi: Phong cách đầu tư nào là tối ưu? Mà
nên đặt câu hỏi: Phong cách nào tối ưu cho tôi? Phong cách nào tôi có thể theo
đuổi với sự tự chủ cao nhất? Phong cách nào sẽ giúp tôi thoải mái nhất? Thoải
mái có nghĩa là dễ tiếp thu hơn và dễ duy trì hơn nếu bạn lựa chọn một phong
cách phù hợp với cá tính của mình. Hãy nhớ kỹ điều này khi đọc phần sau của cuốn
sách.
CÁC CHIẾN LƯỢC TRONG MỖI PHONG CÁCH
Có nhiều chiến lược đầu
tư chưa đủ phức tạp để được coi là một phong cách riêng biệt, nhưng chúng lại
có thể phát huy hiệu quả khi kết hợp với các phong cách khác.
Chẳng hạn, trong chiến lược
đầu tư từ trên xuống dưới, đầu tiên, chúng ta cần xem xét toàn bộ thị trường để
xác định xu hướng thị trường, sau đó chọn ra những ngành hay lĩnh vực hoạt động
hiệu quả nhất, rồi mới lựa chọn một cổ phiếu từ các ngành đó. Chiến lược đầu tư
từ trên xuống dưới có thể kết hợp với hầu hết các phong cách đầu tư. Chiến lược
giao dịch nội bộ cũng tương tự như thế. Bằng việc nghiên cứu những giao dịch nội
bộ trong các báo cáo, bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có thể mua vào và bán ra cổ phiếu
khi các thành viên trong nội bộ công ty có một động thái bất kỳ.
Để giảm bớt rủi ro trong
những phong cách đầu tư có rủi ro cao, bạn có thể tạo ra một chiến lược thị trường
trung tâm khi mua những cổ phiếu đang được kỳ vọng tăng và những cổ phiếu bán
khống đang được dự đoán giảm (Bán khống có nghĩa là bán ra cổ phiếu và sau này
mua lại nó với mức giá thấp hơn). Các chiến lược khác có thể được sử dụng kết hợp
với bất kỳ phong cách đầu tư nào bao gồm: bán khống thuần túy, đầu tư toàn cầu
và sử dụng hợp đồng quyền chọn để tự bảo hiểm danh mục đầu tư. Chúng tôi sẽ đề
cập đến từng chiến lược này ở các chương sau.
GIÁ TRỊ VỐN HÓA THỊ TRƯỜNG: PHONG CÁCH HAY CHIẾN LƯỢC
Mặc dù không hoàn toàn giống
một chiến lược nhưng giá trị vốn hóa thị trường đóng vai trò quan trọng trong
quy trình lựa chọn cổ phiếu của nhiều nhà đầu tư. Chẳng hạn, các nhà đầu tư giá
trị thường đầu tư vào những công ty lớn, trong khi đó, các nhà đầu tư tăng trưởng
lại ưa thích cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ. Giá trị vốn hóa thị
trường còn giữ vai trò quan trọng hơn nữa nếu bạn đầu tư theo vòng quay vốn.
Giá trị vốn hóa thị trường
Giá trị vốn hóa thị trường
thể hiện tầm cỡ của công ty. Nó được tính bằng giá cổ phiếu nhân với số lượng cổ
phiếu đang lưu hành. Giá trị vốn hóa thị trường có các mức là: lớn, trung bình,
nhỏ và cực nhỏ. Mỗi loại đại diện cho một khoảng giá trị vốn hóa thị trường
trong Biểu đồ 8.1.
Giống như các phong cách
đầu tư, giá trị vốn hóa thị trường có lúc thăng lúc trầm, tùy theo điều kiện thị
trường. Chẳng hạn vào thập niên 1960, cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn
trải qua một giai đoạn thất thế dài (chỉ số Dow John của 30 công ty có giá trị
vốn hóa thị trường lớn chỉ đạt mức 1000 điểm trong mười năm). Còn cổ phiếu có
giá trị vốn hóa thị trường nhỏ tăng hơn 15%/năm. Các nhà đầu tư lựa chọn cổ phiếu
có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ thu được hiệu quả cao hơn và nhanh hơn nhà đầu
tư chọn cổ phiếu giá trị vốn hóa thị trường lớn. Tương tự như vậy, cổ phiếu có
giá trị vốn hóa thị trường nhỏ suy giảm vào cuối những năm 1990, trong khi cổ
phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn lại bùng nổ và đem lại nhiều khoản lợi
nhuận tức thì.
Nếu bạn không trung thành
với một giá trị vốn hóa thị trường cụ thể, hãy lựa chọn giá trị vốn hóa thị trường
nào đang được ưa chuộng. Và chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách áp dụng giá trị vốn
hóa thị trường vào chiến lược đầu tư của bạn.
BIỂU ĐỒ SỐ THƯƠNG TÂM LÝ (PQ)
Để giúp bạn hiểu được sự
cần thiết của mỗi phong cách đầu tư, chúng tôi đã xây dựng biểu đồ PQ nhằm mục
đích đánh giá từng phong cách đầu tư dựa trên mười đặc điểm về tính cách, tâm
lý và các phẩm chất khác như tính kỷ luật, sự kiên nhẫn, khả năng chấp nhận rủi
ro, lợi nhuận kỳ vọng, khả năng chịu đựng sự bất ổn, thời gian đầu tư, thời
gian quản lý danh mục đầu tư, kỹ năng về số học, kỹ năng biểu đồ và sự tự tin của
nhà đầu tư. Số điểm đánh giá một đặc điểm hay phẩm chất càng cao cho thấy nó
càng quan trọng với phong cách đầu tư. Biểu đồ 3.2 minh họa ví dụ về một nhà đầu
tư theo đà tăng trưởng. Các tỷ lệ của biểu đồ PQ này không phải là tỷ lệ chính
thức. Đó là đánh giá của chúng tôi về những đặc điểm mà mỗi phong cách đầu tư cần có.
Tính kỷ luật
Tính kỷ luật là khả năng
tuân thủ nguyên tắc, đặc biệt là những nguyên tắc do chính bạn đặt ra. Tất cả
các nhà đầu tư thành công đều cần tính kỷ luật để tuân thủ nguyên tắc đầu tư của
mình. Thực tế, theo thiên tài đầu tư Jack Schwager, tính kỷ luật là phẩm chất đầu
tiên mà một nhà đầu tư cần có. Một số phong cách như phong cách đầu tư theo đà
tăng trưởng đòi hỏi nhà đầu tư phải chú ý nhiều đến nguyên tắc mua vào và bán
ra nhằm giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Ngược lại, phong cách đầu tư
giá trị lại đòi hỏi nhiều công sức để phát hiện ra cổ phiếu tiềm năng. Tuy
nhiên, việc tiến hành giao dịch thật sự lại đòi hỏi rất ít tính kỷ luật. Do đó,
trên biểu đồ PQ, tính kỷ luật của phong cách đầu tư theo đà tăng trưởng được
đánh giá mười điểm trong khi đầu tư giá trị chỉ là hai điểm.
Kiên nhẫn
Kiên nhẫn là khả năng chờ
đợi của bạn đến ngày hưởng thành quả đầu tư. Bạn muốn thu quả xanh ngay hay sẵn
sàng chờ đến đến ngày quả chín? Có thể phải mất vài năm các cổ phiếu dưới giá
trị mới hồi phục giá trị và mang lại khoản lợi nhuận kỳ vọng. Do đó, nhà đầu tư
giá trị phải rất kiên nhẫn. Trong khi đó, phương pháp giao dịch trong ngày
không đòi hỏi tính kiên nhẫn bởi lợi nhuận được tạo ra hàng ngày, hàng giờ hay
thậm chí hàng phút. Trên biểu đồ PQ, các nhà đầu tư giá trị đạt điểm chín cho mức
độ kiên nhẫn trong khi điểm cho nhà giao dịch trong ngày là một.
Khả năng chịu rủi ro
Rủi ro được hiểu theo
nghĩa là lượng vốn đầu tư bị mất đi trước khi hồi phục lại. Nếu bạn có khả năng
chấp nhận rủi ro, bạn sẽ không hoang mang khi giá cổ phiếu giảm 20-30%, miễn là
cổ phiếu đó vẫn đáp ứng được mục tiêu đầu tư của bạn. Nhưng những người có khả
năng chấp nhận rủi ro kém cảm thấy lo sợ khi lỗ lớn như vậy. Các nhà đầu tư
tăng trưởng và theo đà tăng trưởng thường phải đối mặt với việc giá cổ phiếu đổi
chiều mạnh mẽ hơn các nhà đầu tư giá trị, vì trên thực tế, cổ phiếu tăng trưởng
và đang trên đà tăng trưởng có tỷ số P/E cao và có nhiều rủi ro hơn cổ phiếu
giá trị. Trên biểu đồ PQ, các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng được đánh giá chín
điểm cho khả năng chấp nhận rủi ro. Các nhà đầu tư giá trị, chủ yếu đầu tư vào
những cổ phiếu không còn được ưa thích, chỉ được đánh giá ba điểm.
Lợi
nhuận kỳ vọng
Khi đầu tư, bạn luôn muốn
thu về lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận luôn đi cùng với rủi ro và các nhà đầu tư
luôn đặt mục tiêu tối thiểu dựa trên mức độ rủi ro mà họ sẵn sàng chấp nhận. Tỷ
lệ rủi ro/doanh thu có thể giúp phân biệt phong cách đầu tư này với phong cách
khác. Một nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận 25%/năm sẽ phải chấp nhận nhiều rủi ro
hơn nhà đầu tư theo đà tăng trưởng hoặc nhà đầu tư kỹ thuật. Các nhà đầu tư giá
trị không giống như những người muốn tìm kiếm siêu lợi nhuận, vì lợi nhuận
trung bình hàng năm của họ hiếm khi vượt quá 25%.
Từ lâu, doanh thu 20%/năm
được coi là khoản lợi nhuận rất khó đạt được khi đầu tư cổ phiếu. Mục tiêu trước
đây và hiện tại của nhiều nhà đầu tư chỉ đơn giản là có lợi nhuận. Trong hơn 20
năm qua, tỷ lệ lợi nhuận trung bình của các cổ phiếu trên sàn Giao dịch Chứng
khoán New York là 10-12% và 12 -14% đối với chứng khoán Nasdaq. Biểu đồ PQ cho
thấy, các phong cách đầu tư có tiềm năng lợi nhuận cao nhất như đầu tư theo đà
tăng trưởng luôn đòi hỏi khả năng chấp nhận rủi ro cao. Đó là điều vẫn thường xảy
ra.
Khả năng chịu bất ổn
Sự bất ổn liên quan đến
tính thường xuyên và mức độ dao động của cổ phiếu. Nó cũng liên quan đến rủi ro
nhưng không giống rủi ro. Các nhà đầu tư nắm giữ một cổ phiếu có thể tác động đến
tính bất ổn của nó. Chẳng hạn, các nhà giao dịch trong ngày có thể làm tăng sự
bất ổn của một cổ phiếu khi mua và bán nó. Những người lãnh đạo các quỹ cũng vậy.
Tùy theo khối lượng giao dịch, các chuyên gia quản lý quỹ trợ cấp và quỹ tương
hỗ khi nhận chức hoặc từ chức có thể làm gia tăng tính bất ổn của một cổ phiếu.
Các bản báo cáo cũng có thể tác động đến khả năng bất ổn của một cổ phiếu có khối
lượng giao dịch ít (ít hơn 20.000 cổ phiếu một ngày). Những cổ phiếu theo đà
tăng trưởng và tăng trưởng có tỷ số P/E cao cũng có thể chứa đựng nhiều bất ổn.
Sự bất ổn không hoàn toàn
là xấu nếu cổ phiếu đáp ứng được những đặc điểm của phong cách đầu tư. Một số
nhà đầu tư như nhà đầu tư trong ngày và nhà đầu tư theo đà tăng trưởng thường
tìm kiếm những cổ phiếu có độ bất ổn cao. Nếu việc giảm giá trị từ 10-20% khiến
bạn e ngại thì bạn hãy áp dụng phong cách đầu tư có tính bất ổn thấp hơn như đầu
tư doanh thu hay hay đầu tư giá trị.
Thời gian đầu tư
Thời gian đầu tư là khoảng
thời gian từ lúc bạn đầu tư tiền vào một loại cổ phiếu cho đến trước khi thu được
lợi nhuận. Thời gian đầu tư phụ thuộc vào sự kiên nhẫn và nhu cầu của bạn. Nói
cách khác, bạn là nhà đầu tư ngắn hạn nếu thiếu kiên nhẫn và muốn có lợi nhuận
ngay lập tức hay bạn là nhà đầu tư dài hạn nếu bạn có thể kiên nhẫn chờ đợi và
chưa cần lợi nhuận ngay lập tức.
Các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng và đầu tư kỹ thuật là những nhà đầu tư ngắn hạn, nắm giữ cổ phiếu
trong thời gian dưới ba tháng (họ được chấm ba điểm cho thời gian đầu tư trong
biểu đồ PQ). Các nhà đầu tư tăng trưởng được coi là những nhà đầu tư trung hạn,
với thời gian đầu tư từ 3-12 tháng (bảy điểm trong biểu đồ PQ). Và các nhà đầu
tư giá trị, nắm giữ cổ phiếu ít nhất là một năm, được coi là những nhà đầu tư
dài hạn và đạt điểm chín trên biểu đồ PQ.
Cam kết thời gian
Bạn mất bao nhiêu thời
gian để lựa chọn và duy trì danh mục đầu tư cổ phiếu? Đó là điều chúng tôi muốn
nói đến trong cụm từ “thời gian quản lý danh mục đầu tư” trong biểu đồ PQ. Về đặc
điểm này, phong cách đầu tư giống như các mối quan hệ. Một số phong cách được
duy trì lâu dài, một số lại chỉ tồn tại trong chớp nhoáng. Đầu tư theo đà tăng
trưởng là phong cách được duy trì lâu dài bởi nó đòi hỏi sự quan tâm thường
xuyên, đặc biệt đối với những điểm bán ra. Kỹ thuật cũng là phong cách được duy
trì lâu dài bởi nó đòi hỏi sự phân tích biểu đồ và đồ thị trên phạm vi rộng cả
khi bạn mua hay bán một loại cổ phiếu. Đầu tư tăng trưởng và đầu tư giá trị là
hai phong cách được duy trì trong thời gian ngắn (lần lượt là ba và năm điểm trên biểu đồ PQ), bởi khi
đã lựa chọn, bạn có thể kiểm tra danh mục đầu tư hàng tháng hoặc hàng quý mà vẫn
cảm thấy thoải mái. Đầu tư giao dịch trong ngày và các nhà đầu tư theo phong
cách lướt sóng đòi hỏi cam kết thời gian lớn
nhất.
Kỹ năng số học
Kỹ năng số học là khả
năng am hiểu số học và tiến hành so sánh toán học. Nếu bạn không thể cân đối sổ
séc hay không hiểu các khái niệm như tỷ suất, thì hãy tránh xa đầu tư cơ bản, bởi
bạn cần đạt gần đến các kỹ năng cấp độ CPA (Tổ chức Kế toán viên Công chứng)
thì mới có thể nghiền ngẫm bảng cân đối kế toán, báo cáo doanh thu và tìm kiếm
những cổ phiếu có nền tảng vững chắc. Các phong cách đòi hỏi phải tính toán như
đầu tư giá trị và đầu tư cơ bản đều cần kỹ năng số học.
Sự tự tin khi đầu tư
Sự tự tin vào khả năng lựa
chọn và quản lý thành công danh mục cổ phiếu của bạn như thế nào? Sự tự tin là
yếu tố quan trọng khi bạn phải phán đoán nguyên nhân tại sao cổ phiếu A tốt hơn
cổ phiếu B. Chẳng hạn, mục tiêu của các nhà đầu tư giá trị là tìm kiếm những cổ
phiếu dưới giá trị thì bạn phải có khả năng phán đoán các dấu hiệu dưới giá trị
và tự tin áp dụng chúng mà không quan tâm đến sự hoài nghi của thị trường.
Không công ty nào công bố cổ phiếu của mình là dưới giá trị với dòng chữ đỏ đậm.
Do đó, đầu tư giá trị đòi hỏi khả năng phán đoán về số lượng và sự tự tin để đi
đến các quyết định cao. Ngược lại, đầu tư kỹ thuật lại ít đòi hỏi phẩm chất
này. Khi đã nắm được tất cả các nguyên tắc, với tư cách là nhà đầu tư kỹ thuật,
bạn không cần dựa nhiều vào óc phán đoán số lượng của chính mình. Tất cả những
gì bạn cần làm là tuân theo các nguyên tắc của riêng bạn.
Sự tự tin đầu tư gắn liền
với kiến thức và thành công. Cả hai điều này ở các nhà đầu tư mới khởi nghiệp đều
không có nhiều. Do đó, nếu bạn mới bắt đầu đầu tư, bạn sẽ muốn tránh các phong
cách đầu tư đòi hỏi nhiều sự tự tin như đầu tư cơ bản và đầu tư lướt sóng.
Nếu việc lựa chọn một
phong cách đầu tư hơi rắc rối thì bạn hãy can đảm lựa chọn. Nếu bạn là một nhà
đầu tư và đã có một phong cách đầu tư, tuy nhiên lại mới ở bước đầu, các chương
sau có thể giúp bạn đánh giá liệu phong cách đó có phù hợp với nhu cầu của bạn
hay không. Nếu bạn chỉ mới bước vào đầu tư, hãy nhớ rằng không có phong cách
nào đúng hay chính xác khi giao dịch cổ phiếu. Phong cách của bạn có thể giống
phong cách này một chút, giống phong cách kia một chút. Hãy thử sức với nhiều
phong cách cho đến khi tìm thấy một phong cách mà bạn cảm thấy thoải mái hay kết
hợp các phong cách theo bất cứ cách nào đem lại kết quả. Chỉ cần nhớ rằng, có một
phong cách đầu tư cũng tốt hơn là không có một phong cách nào cả.
CHƯƠNG 4. Chiến lược đầu tư tăng trưởng
Các nhà đầu tư tăng trưởng
luôn sẵn sàng trả bất cứ mức giá nào để sở hữu những công ty đang tăng trưởng
nhanh nhất trên thị trường. Các công ty có tốc độ tăng trưởng cao được đo bằng
lợi nhuận tính theo doanh thu trên một cổ phiếu (EPS). Các nhà đầu tư tăng trưởng
tìm kiếm những công ty có tốc độ tăng trưởng tối thiểu là 15-20%/năm, nhưng
thông thường là cao hơn mức đó rất nhiều. Họ hy vọng bằng việc mua và nắm giữ
những cổ phiếu như vậy trong khoảng thời gian dài, giá của những cổ phiếu đó sẽ
tăng và như vậy, danh mục đầu tư tăng trưởng cũng sẽ tăng hơn 15-20%/năm.
Điều này thật tuyệt vời.
Song, những cổ phiếu có tỷ lệ tăng trưởng cao cũng chính là những cổ phiếu có tỷ
lệ rủi ro cao. Vì các nhà đầu tư sẵn lòng trả giá cao hơn quy định cho chúng
nên tỷ số P/E của chúng rất cao. Lý do ẩn sau hành động này là vì họ cho rằng
theo tiềm năng tăng trưởng, những cổ phiếu đó xứng đáng tăng cao hơn mức trung
bình. Ngoài ra, họ còn cho rằng nên duy trì tỷ số P/E ở mức cao khi một công ty
tiếp tục giữ vững tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cao trong 3-10 năm. Nhưng tỷ số
P/E rất dễ bị ảnh hưởng do sự thay đổi nhận thức về tăng trưởng trong tương lai
hay do sự suy giảm lòng tin vào sự tăng trưởng đó của các nhà đầu tư. Những
thay đổi đó có thể gây ra nhiều đợt sụt giảm nghiêm trọng tỷ số P/E của các cổ
phiếu tăng trưởng.
Nhà đầu tư tăng trưởng
luôn dự trù sẵn các cách tự vệ trước những rủi ro. Điều quan trọng là bạn cần
phán đoán được chuyện gì có thể xảy ra. Hãy cùng xem xét ví dụ dưới đây về
Cisco để hiểu rõ thêm.
Trong suốt thập niên
1990, cổ phiếu của Tập đoàn thiết bị viễn thông và giải pháp mạng Cisco là cổ
phiếu tăng trưởng điển hình với tỷ lệ tăng trưởng từ 30-50%/năm. Tập đoàn Cisco
đã hoàn toàn thống trị ngành công nghiệp này. Nhưng cuối năm 2000, Cisco đưa ra
cảnh báo rằng công ty không thể tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ như vậy do sự
tham gia ồ ạt của các công ty công nghệ, sự sụp đổ của các công ty kinh doanh
khai thác mạng và nhiều vấn đề của nền kinh tế trong nước và quốc tế. Cisco vẫn
là công ty độc quyền có tốc độ tăng trưởng cao và tiếp tục thống trị trong
ngành đó, nhưng sau khi thông báo được đưa ra, sự tin tưởng của các nhà đầu tư
sụt giảm nhanh chóng. Các nhà đầu tư từng sẵn sàng trả cao gấp 100 lần doanh
thu đột nhiên do dự. Ngay lập tức, họ cho rằng tỷ lệ tăng trưởng 30-50% của
Cisco không ổn định và không chấp nhận trả tỷ số P/E cao. Dù trên thực tế, chẳng
có điều gì nghiêm trọng thât sự xảy ra với công ty này ngoại trừ mức tăng doanh
thu đang chậm lại – cổ phiếu của Cisco giảm hơn 75% trong bốn tháng (xem biểu đồ
4.1). Kết quả này thực sự gây choáng váng cho những người chứng kiến cổ phiếu
trong tay họ giảm từ 50 đô la xuống chỉ còn 13 đô la. Và với những người nắm giữ
cổ phiếu của Cisco từ năm 1999, mức giảm từ 80 đô la xuống còn 13 đô la khiến họ
như rơi xuống vực sâu.
Sự bất ổn định của tỷ số
P/E cao là rủi ro chung cho những cổ phiếu có tỷ lệ tăng trưởng cao và đó là điều
mà các nhà đầu tư tăng trưởng buộc phải chấp nhận. Hãy nhớ rằng các ngành công
nghiệp khác nhau sẽ có rủi ro khác nhau. Độ rủi ro của những ngành công nghiệp ẩn
chứa giá trị cổ phiếu cao phi thường cũng cao tương đương như thế. Nếu bạn
không có khả năng chịu rủi ro nhưng vẫn muốn trở thành nhà đầu tư tăng trưởng,
bạn nên tập trung vào những ngành ít biến động hơn.
BIỀU ĐỒ PQ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG
Như bạn có thể thấy trong
biểu đồ 4.2, việc trở thành một nhà đầu tư tăng tr công đòi hỏi sự kết hợp của
nhiều phẩm chất. Bạn cần có sự kiên nhẫn và kh đựng rủi ro cao bởi sự bất ổn định
của các tỷ số P/E cao sẽ gây ra biến động thị trường.
Bản chất của đầu tư tăng
trưởng là đầu tư dài hạn nên nó không đòi hỏi nhiều thời gian cho quản lý danh
mục đầu tư. Bạn chỉ cần thiết lập một chương trình thông báo bằng thư điện tử
những tin tức về cổ phiếu hiện đang nắm giữ để biết được những trở ngại đối với
cổ phiếu hay sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư khác đối với công ty,
ngành. Tài liệu quan trọng nhất để nghiên cứu kỹ lưỡng cổ phiếu là báo cáo
doanh thu quý, chúng thể hiện sự tăng trưởng còn hay mất và tại mức giả định,
khi nào bạn nên bắt đầu mua cổ phiếu.
Một nhà đầu tư tăng trưởng
có thể thực hiện tốt các kỹ năng số học bình thường và kỹ năng kỹ thuật tối thiểu.
Yêu cầu về tính kỷ luật ở mức độ vừa phải. Yêu cầu cấp thiết nhất về tính kỷ luật
là không bán ra cổ phiếu khi chúng trải qua những đợt biến động nhẹ.
PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU TĂNG TRƯỞNG
Chúng ta có thể tìm thấy
cổ phiếu tăng trưởng ở tất cả các lĩnh vực hay nhóm ngành. Chúng là các công ty
nhỏ nhưng có khả năng tăng trưởng cực nhanh, các công ty vừa đang dần thống trị
trong các ngành truyền thống hoặc ngành mới có thể duy trì tỷ lệ tăng doanh thu
trong tương lai dài. Ngoài ra, các công ty tăng trưởng đang nổi lên với công
nghệ mới, tuy chưa đạt được mức tăng trưởng doanh thu lớn nhưng cũng luôn sẵn
sàng cất cánh. Tuy nhiên, những cổ phiếu tăng trưởng điển hình luôn nằm trong
những ngành kinh tế có tổng doanh thu đang tăng nhanh.
Trên thực tế, bạn luôn có
thể tìm ra một công ty tăng trưởng trong một ngành không tăng trưởng nếu công
ty đó có những tiến bộ kỹ thuật, phong cách quản lý hiệu quả hay một thương hiệu
mạnh. Đây chính là những yếu tố tạo nên một công ty tăng trưởng cao, dù nó thuộc
nhóm ngành nào.
Công nghệ, quản lý và thương hiệu: Những động lực tăng
trưởng cổ phiếu
Một công nghệ mới hay
mang tính siêu việt luôn là nền tảng của những cổ phiếu tăng trưởng. Đó là lý
do tại sao các nhà đầu tư tăng trưởng có thể tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng
trong các lĩnh vực công nghệ cao có sức hấp dẫn. Trong những ngành công nghệ
cao như viễn thông hay kinh doanh mạng, bạn có thể dễ dàng nhận biết những cổ
phiếu tăng trưởng hàng đầu dễ dàng được nhận biết thông qua nhãn hiệu nổi tiếng
của công ty (như AOL và Yahoo!), qua phong cách quản lý hiệu quả (như Intel hay
Microsoft). Nhưng việc tập trung vào cổ phiếu tăng trưởng của các ngành công
nghệ cao cũng có một nhược điểm. Trong nhiều trường hợp, doanh thu tăng nhanh
hơn lợi nhuận, điều này dẫn tới sự gia tăng giá trị hệ số giá – lợi nhuận P/E,
dẫn đến rủi ro cao hơn mức thông thường. Nếu sự tin tưởng của các nhà đầu tư giảm
sút hay doanh thu giảm, tỷ số P/E cũng phải thay đổi theo. Bạn đã thấy chuyện
gì từng xảy ra với Cisco và hàng trăm cổ phiếu của các công ty mạng khác trong
năm 2001 rồi đấy.
Các công ty tăng trưởng với
cổ phiếu tăng trưởng cao, rủi ro cao không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực kỹ thuật
cao, mà đôi khi vẫn tồn tại trong những ngành kinh tế truyền thống. Có danh mục
đầu tư nào có thể kém hấp dẫn hơn một nhà tang lễ? Chúng ta hãy xem xét ví dụ
dưới đây về Service Corp. International (SRV), một công ty sở hữu hơn 4.000 nhà
tang lễ trên thế giới.
SRV thành lập từ năm 1974
và là công ty cung cấp dịch vụ tang lễ lớn nhất thế giới. Trong biểu đồ 4.3,
công ty này đã phải đối mặt với một đợt sụt giảm nghiêm trọng vào năm 1999-
2000. Nhưng trong giai đoạn từ năm 1988-1998, tỷ lệ tăng doanh thu trung bình của
SRV là 15%/năm. Điều đó đã nâng cổ phiếu SRV lên vị trí cao hơn những cổ phiếu
tăng trưởng khác. Đáng chú ý là, họ không hề có công nghệ siêu việt nào mà chỉ
dựa trên sự quản lý hiệu quả.
Trình độ quản lý vượt trội
có thể biến một công ty bình thường thành một công ty tăng trưởng. SRV là một
minh chứng. Nó cũng có thể đưa một công ty không tiếng tăm trở thành một thương
hiệu rất được ưa chuộng như trường hợp của hãng bán lẻ Wal-Mart (WMT).
Nhà kinh doanh tài ba Sam
Walton bắt đầu từ việc xây dựng một chuỗi cửa hàng hạ giá ở các thành phố nhỏ.
Nhóm quản lý năng nổ của ông đã biến WMT thành cổ phiếu tăng trưởng vĩnh viễn
và WMT trở thành nhãn hiệu lớn ở Mỹ. Sau gần 30 năm, cổ phiếu tăng trưởng WMT
đã đạt tới đỉnh cao (xem biểu đồ 4.4). Trong suốt những năm 1990, doanh thu của
hãng tăng lên gần 25%/năm, giá cổ phiếu tăng hơn 1.000% và hiện WMT vẫn là một
Phương pháp quản lý hiệu
quả và công nghệ siêu việt là những yếu tố tạo nên thương hiệu mạnh. Trong một ngành
mới như kinh doanh mạng, một nhãn hiệu vượt trội đôi khi chỉ do họ là những người
đầu tiên. Bằng chứng là những công ty đang thống trị mạng từ buổi đầu như
Yahoo! và Amazon.com. Nhưng việc dẫn đầu ngành và tiếp tục duy trì địa vị thống
trị trong tương lai lại đòi hỏi phải quản lý hiệu quả.
Coca-Cola là một trong những
công ty tiên phong trong ngành công nghiệp nước giải khát, đồng thời công ty
cũng có trình độ quản lý vượt trội để đưa Coke trở thành một thương hiệu nổi tiếng
trên thế giới và tiếp tục tăng trưởng vững chắc trong nhiều thập kỷ. Từ năm
1990-1998, Coke đã có bước nhảy vọt với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 30%/năm
(xem biểu đồ 4.5). Sự tăng trưởng vượt bậc của công ty gần đây nhất là do sự
thâm nhập mạnh mẽ vào các thị trường nước ngoài.
Procter & Gamble (PG)
là một nhãn hiệu lớn cũng trở thành cổ phiếu tăng trưởng trong thời gian dài
(xem biểu đồ 4.6). Đầu những năm 1990, PG tăng trưởng với tỷ số P/E trung bình
là 17, nhưng việc định giá cổ phiếu này trên thị trường đầu cơ giá lên cuối những
năm 1990 đã vượt quá giá trị. Mùa xuân năm 2000, tăng trưởng doanh thu của PG
giảm xuống còn gần 10% trong khi tỷ số P/E tăng mạnh lên hơn 30.
Như vậy, những cổ phiếu
tăng trưởng cao có ở hầu hết các lĩnh vực. Không phải tất cả các công ty có cổ
phiếu tăng trưởng cao đều có kỹ thuật siêu việt, thương hiệu mạnh vượt trội và
trình độ quản lý cao. Chỉ với một yếu tố hay sự kết hợp ba yếu tố đó cũng có thể
tạo nên thành công. Cuối cùng, điều bạn cần làm là xác định những cổ phiếu có
P/E cao nhất.
Khi nào một cổ phiếu không còn là cổ phiếu tăng trưởng?
Một cổ phiếu không còn là
cổ phiếu tăng trưởng khi nó ngừng tăng trưởng. Điều đó đúng. Nhưng mọi chuyện lại
không đơn giản như thế.
Doanh thu là phong vũ biểu
của quá trình tăng trưởng. Khi mức tăng trưởng doanh thu giảm, giá cổ phiếu
cũng giảm theo. Chẳng hạn doanh thu của PG giảm sút khiến công ty phải dừng lại
giữa đường. Giống như nhiều cổ phiếu khác trong nền kinh tế bùng nổ cuối thập
niên 1990, giá cổ phiếu của PG đã tăng vượt xa sự tăng trưởng và doanh thu của
công ty.
Như bạn có thể thấy trong
biểu đồ trước đó (xem biểu đồ 4.3 và 4.4), điều này cũng xảy ra với WMP và SRV.
Đầu thập kỷ 1990, WMP có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu thấp hơn 20% và tỷ số P/E
trung bình là 30. Nhưng đến mùa xuân năm 2000, tỷ lệ tăng trưởng của công ty giảm
xuống còn 15% trong khi tỷ số P/E tăng lên 35. Giống như những cổ phiếu tăng
trưởng khác, giá cổ phiếu của WMP giảm xuống trong khi tỷ số P/E lại được cải
thiện.
Nhưng giá cổ phiếu của
SVR còn giảm mạnh hơn nhiều. Đầu những năm 1990, SRV tăng trưởng hơn 15%/năm với
tỷ số P/E trung bình là 17, nhưng sau đó, tỷ lệ tăng trưởng giảm xuống dưới 15%
trong khi tỷ số P/E tăng lên 25. Những khó khăn nghiêm trọng về doanh thu diễn
ra trong suốt năm 1999 và 2000 khiến cổ phiếu của SVR tụt xuống đáy biểu đồ
(xem biểu đồ 4.3).
Cuối những năm 1990, việc
tỷ số P/E tăng và doanh thu giảm diễn ra phổ biến, với cả những công ty lớn và
lâu đời. Đó là lý do tại sao những cổ phiếu đó giảm nghiêm trọng trong năm 2000
và 2001. Nếu bạn xem lại ví dụ trong Chương 1, bạn sẽ hiểu vì sao tỷ lệ tăng
trưởng doanh thu cơ bản có thể giảm từ 20% xuống 10%, giảm giá cổ phiếu xuống
con số giữa 50-70% với những lý do hợp lý.
Dấu hiệu giảm doanh thu đầu
tiên là các nhà phân tích dự đoán doanh thu giảm hay công ty đưa ra cảnh báo về
doanh thu. Nếu việc giảm doanh thu quả thực đến rồi đi thì bạn sẽ cần phải tìm
hiểu xem đó là dấu hiệu tỷ lệ tăng trưởng EPS tụt giảm lâu dài hay chỉ là tạm
thời. Làm thế nào bạn biết được điều này? Hãy tìm hiểu những nguyên nhân tai
sao công ty thực hiện chậm kế hoạch.
Chẳng hạn, nếu một công
ty sản xuất có tỷ lệ tăng doanh thu là 20% đột nhiên cảnh báo rằng công ty có
thể chỉ đạt doanh thu 10% quý này do không nhận được linh kiện, thì chắc chắn
giá cổ phiếu của công ty đó sẽ bị tác động mạnh. Những nếu công ty thông báo rằng
các nhà cung cấp linh kiện đã giải quyết được vấn đề và doanh thu sẽ sớm hồi phục,
thì những tác động đến giá cổ phiếu có thể chỉ là tạm thời. Lúc này, bạn phải
quyết định có nên tin vào lời giải thích đó hay không. Nhưng nếu các nhà phân
tích ủng hộ tuyên bố của công ty, thì không có lý do gì khiến bạn phải lo lắng
nữa. Trong ngành công nghệ sinh học hay kinh doanh mạng, những trục trặc như vậy
vẫn thường xuyên xảy ra.
Mặc dù vậy, hãy nhớ rằng
tỷ số P/E cao của cổ phiếu tăng trưởng thường tạo ra một môi trường bất ổn. Do
lo lắng tỷ số P/E có thể giảm nghiêm trọng, các nhà đầu tư đôi khi hành động dựa
trên những tin đồn không có thực hay sự lo sợ. Không phải bỗng nhiên mà họ mất
đi sự tin tưởng. Đó là do một tin đồn không đúng về một vấn đề và dưới tác động
của tin đồn đó, người ta bắt đầu bán ra, kéo theo sự sụt giảm nhanh chóng của tỷ
số P/E.
Lợi nhuận giảm cũng là một
dấu hiệu của việc cổ phiếu tăng trưởng có xu hướng giảm. Lợi nhuận giảm là dấu
hiệu báo trước sự thay đổi doanh thu dài hạn. Rõ ràng, đây không phải là một
tin tốt đối với cổ phiếu tăng trưởng. Suy giảm lợi nhuận có thể là do cạnh
tranh giá, giá nguyên liệu thô bất ổn định hay chi phí lao động tăng, nhưng dù
là nguyên nhân nào thì khi thấy những dấu hiệu giảm lợi nhuận, bạn hãy xem xét
kỹ lưỡng cổ phiếu đó.
Thời điểm một cổ phiếu
tăng trưởng không còn là cổ phiếu tăng trưởng nữa được tóm tắt lại như sau: Nếu
bạn mua một cổ phiếu rồi bán đi thì có thể là vì nó không còn hợp với bạn nữa.
Nếu bạn đã mua một cổ phiếu vì tin tưởng vào vị giám đốc điều hành tài giỏi và
nếu ông ta bị sa thải, nghỉ hưu hay chuyển chỗ làm, sự tin tưởng của bạn có thể
giảm sút. Nếu bạn đã mua một cổ phiếu tăng trưởng vì công ty đó có công nghệ
cao nhưng rồi quyền độc quyền chế tạo của công ty không còn, thì triển vọng
tương lai của cổ phiếu có thể thay đổi đột ngột. Một công nghệ mới, có tính cạnh
tranh cũng có thể làm thay đổi tương lai của một cổ phiếu tăng trưởng. Chẳng hạn,
sự ra đời của máy tính cá nhân đầu thập niên 1980 đã tạo ra sự tăng trưởng đột
biến trong các tập đoàn hàng đầu về máy vi tính như IBM.
Đừng để điều bất thường tạm
thời làm bạn chệch hướng. Là nhà đầu tư tăng trưởng, bạn luôn ở trên một chặng
đường dài. Miễn là nhóm quản lý hiệu quả vẫn đang ở đó, miễn là lợi nhuận hay
doanh thu vẫn đi đúng hướng, miễn là công ty vẫn duy trì vị trí hàng đầu trong
ngành và tiếp tục nắm giữ thị phần, bạn hãy tiếp tục cuộc hành trình dài đó. Đó
là tất cả những gì cần biết về đầu tư tăng trưởng.
Giá cổ phiếu dựa trên GARP
Cuối những năm 1990, việc
bán những cổ phiếu cao gấp ba hoặc bốn lần tỷ lệ tăng trưởng là phổ biến. Chẳng
hạn, các công ty có tỷ lệ tăng doanh thu 20% thường có tỷ số P/E là 60 hay
80. Các nhà đầu tư khôn
ngoan tính toán rằng, mức giá cao gấp ba hay bốn lần tỷ lệ tăng trưởng không thể
tồn tại lâu được.
Mùa xuân năm 2000, tất cả
cổ phiếu liên quan đến các công ty kinh doanh mạng đều bị ảnh hưởng mạnh. Hậu
quả tai hại của đợt giảm giá này đã tạo ra cơ hội mua vào những cổ phiếu như
Cisco và Yahoo!, những cổ phiếu đã thoát khỏi khủng hoảng nhờ có thương hiệu mạnh
và cách quản lý hiệu quả. Nhưng bạn có thể đoán được mức giá thấp nhất là bao
nhiêu không? Đến tháng 10/2000, Cisco đã mất hơn 50% giá trị và giá trị của
Yahoo! giảm xuống còn 2/3 so với ban đầu. Vào thời điểm đó, những cổ phiếu này
là những món hời, nhưng cả hai cổ phiếu vẫn có thể giảm tiếp. Cisco và Yahoo!
đã khôi phục bằng giá trị thời điểm trước ngày 11/9, nhưng chỉ bằng 80% và 90%
so với mức giá kỷ lục năm 1999.
Sau sự sụp đổ của các công ty kinh doanh trên mạng,
GARP – tăng trưởng ở mức giá hợp lý
– đã trở thành một từ
thông dụng trên thị trường phố Wall. Nhưng thế nào là cổ phiếu tăng trưởng ở mức
giá hợp lý?
Những nhà đầu tư tăng trưởng
có uy tín như nhà đầu tư tăng trưởng nổi tiếng thế giới Peter Lynch nói rằng,
các nhà đầu tư tăng trưởng không nên trả giá cao gấp một lần tỷ lệ tăng EPS
(qua tỷ lệ tăng EPS, chúng tôi muốn nói đến tỷ lệ tăng doanh thu hàng năm của một
cổ phiếu trong thời gian từ 3-5 năm và dự đoán cho 3-5 năm tiếp theo, chứ không
chỉ là doanh thu quý này qua quý khác). Điều đó có nghĩa là với một cổ phiếu
đang tăng trưởng ở mức 20%/năm, bạn sẽ trả giá cho nó không quá 20 lần doanh
thu hay tỷ số P/E không quá 20.
Peter Lynch không sử dụng
từ GARP, nhưng ông cũng đang nói về tăng trưởng ở mức giá hợp lý.
GARP cũng chịu ảnh hưởng
ngược lại của tỷ lệ lãi suất thông thường. Trong môi trường lãi suất thấp năm
2000-2001, hầu hết các chuyên gia đều thừa nhận rằng trả giá cao gấp 1,5 lần tỷ
lệ tăng trưởng là hợp lý. Điều này tương đương với tỷ số P/E là từ 20-30 đối với
cổ phiếu tăng trưởng có tỷ lệ tăng EPS là 20%/năm. Lý do khiến các nhà đầu tư
trả giá cao hơn nhiều khi đầu tư doanh thu cố định giảm là vì những người nắm
giữ trái phiếu tìm kiếm khoản doanh thu cao hơn từ cổ phiếu, do đó tăng tỷ số
P/E của cổ phiếu. Hơn nữa, khi những hóa đơn kỳ hạn được chiết khấu ở tỷ lệ lãi
suất thấp, giá cũng được đẩy lên cao hơn mức hiện tại. Tuy nhiên, thậm chí chỉ
1% tỷ lệ lãi suất sẽ không làm cho tỷ số P/E cao gấp ba và bốn lần tỷ lệ tăng trưởng.
QUY TRÌNH ĐẦU TƯ DÀNH CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG
Trong Chương 2, chúng tôi
đã trình bày quy trình đầu tư nói chung gồm: lựa chọn cổ phiếu, lựa chọn thời
điểm mua vào và bán ra và quản lý danh mục đầu tư. Tuy nhiên, đối với đầu tư
tăng trưởng, vấn đề trọng tâm là lựa chọn cổ phiếu.
Chiến lược lựa chọn cổ phiếu: Tìm ra những cổ phiếu
tăng trưởng bền vững
Việc lựa chọn cổ phiếu có
tính quyết định đối với một nhà đầu tư tăng trưởng. Do đó, câu hỏi đầu tiên bạn
nên đặt ra là: Làm thế nào để chọn được những cổ phiếu tăng trưởng nhất? Bạn có
thể làm theo gợi ý của Peter Lynch. Nếu bạn thấy tất cả mọi người đều có điện
thoại di động và máy nhắn tin, bạn có thể kết luận rằng viễn thông, đặc biệt là
nhóm ngành không dây, đang là ngành tăng trưởng. Đó là cách rất nhiều nhà đầu
tư phát hiện ra cổ phiếu tăng trưởng mạnh.
Cách của Peter Lynch rất
hiệu quả nếu bạn quan tâm đến những cổ phiếu bán lẻ và nếu chúng được định giá hợp
lý. Cách tìm những cổ phiếu tăng trưởng khá chính xác là sử dụng chương trình
sàng lọc hay những bộ lọc tìm kiếm trên Internet.
Trong quá trình xây dựng
bộ lọc tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng, bạn phải quyết định xem nên tập trung vào
mức tăng trưởng tương lai hay tăng trưởng quá khứ (Chúng tôi khuyên bạn nên cân
bằng cả hai). Bạn phải quyết định sẽ tìm kiếm công ty lớn hay công ty nhỏ đang
nổi lên. Bạn cần xem xét giới hạn thanh toán của mình cho những cổ phiếu này,
như chúng tôi đã đề cập trong phần giá cổ phiếu dựa trên GARP.
Đây là những tiêu chuẩn sàng lọc cần thiết:
•
Tăng
trưởng doanh thu trên một cổ phiếu được dự đoán cao nhất trong một đến năm năm
tới: Đây là định nghĩa của cổ phiếu tăng trưởng. Doanh thu trong tương lai là
điều mà chúng ta hướng tới;
•
Tăng
trưởng doanh thu trên một cổ phiếu cao nhất trong lịch sử trong một năm, ba năm
hoặc năm năm: Tăng trưởng doanh thu trong lịch sử cao chứng tỏ công ty đó có thể
tạo ra doanh thu. Mức tăng trưởng doanh thu này khiến chúng ta tin tưởng công
ty có thể đạt được tỷ lệ tăng EPS dự đoán. Nếu không, chúng ta chỉ đang đầu cơ;
•
Cận
biên lợi nhuận tăng: Lợi nhuận tăng có nghĩa là mọi hoạt động của công ty đang
diễn ra rất tốt, lợi nhuận và doanh thu trên một cổ phiếu tăng;
•
Liên
tiếp gây ngạc nhiên về lợi nhuận theo hướng tích cực: Nếu một công ty vượt quá
mức dự đoán về các yếu tố cơ bản thì đó là dấu hiệu quản lý tốt. Nếu một công
ty không đạt được mức dự đoán về các yếu tố cơ bản, đó là dấu hiệu cho thấy
công ty đó không quản lý được chi phí, doanh thu hay cả hai. Một bất ngờ có
tính tiêu cực nhất thời có thể không phải là do lỗi quản lý mà là do nền kinh tế
hay nhà phân tích lạc quan thái quá. Song dù nguyên nhân là gì, những bất ngờ
đó sẽ vẫn gây tác động xấu;
• Những người trong nội bộ mua vào nhiều:
Nếu những người trong nội bộ công ty mua vào nhiều thì đó là do họ phải tin tưởng
vào triển vọng tăng trưởng của công ty. Điều này cũng khiến chúng ta thêm tin
tưởng công ty đó;
• Tăng trưởng doanh thu dự đoán trong
ngắn hạn: Sự thay đổi tích cực trong dự đoán của các nhà phân tích là công cụ dự
báo tăng giá cổ phiếu tốt nhất. Cần có một sự tiên phong để các nhà phân tích có thể đưa ra thay đổi. Khi dự đoán ban đầu
được đưa ra, thì việc tăng mức dự đoán sẽ đem lại một dấu hiệu rất tích cực cho
thị trường. Điều này khiến chúng ta tin tưởng vào tương lai của công ty;
• Tỷ lệ tăng doanh thu cao: Tăng doanh
thu đặc biệt thích hợp với những ngành non trẻ như kinh doanh mạng và các ngành
thiên về nghiên cứu như công nghệ sinh học. Trong những ngành này, chúng tôi
đánh giá cao những công ty công khai mức tăng doanh thu, ngay cả khi doanh thu
không tăng hoặc tăng rất ít. Doanh thu tăng nhanh là cách để nhận ra một cổ phiếu
tăng trưởng nhờ công nghệ mới;
• Tỷ lệ P/E hợp lý so với mức tăng trưởng
doanh thu dự đoán và doanh thu lịch sử: Điều này đảm bảo rằng chúng ta đang mua
cổ phiếu tăng trưởng với mức giá hợp lý – quy tắc GARP.
Các tiêu chuẩn này hay
các tiêu chuẩn nghiên cứu cổ phiếu của chính bạn sẽ giúp bạn xây dựng một danh
sách gồm khoảng 25 cổ phiếu tăng trưởng cao. Điều bạn cần làm là thu hẹp danh
sách đó xuống còn bốn đến năm loại cổ phiếu tốt nhất để mua vào.
Đánh giá danh sách cổ phiếu tăng trưởng thu gọn
Để tìm ra những cổ phiếu
tăng trưởng tốt nhất trong danh sách cổ phiếu tăng trưởng cao, bạn hãy loại ra
những cổ phiếu yếu. Những câu hỏi trong Bảng 4.1 có thể giúp bạn sàng lọc cổ
phiếu trong danh sách.
Quy trình đánh giá này có
thể lọc bỏ những cổ phiếu yếu nhất, nhưng hãy nhớ rằng một hoặc hai điểm yếu
chưa đủ để loại bỏ một cổ phiếu. Điều mà bạn đang tìm kiếm là “sự vượt trội của
một dấu hiệu”. Theo cách nói của nhà kinh tế học nổi tiếng Martin Pring, đó là
dấu hiệu sẽ cho bạn thấy đâu là những cổ phiếu tăng trưởng.
Chiến
lược mua vào và bán ra: Làm thế nào để tránh rắc rối
Nhiều nhà đầu tư tăng trưởng
cho rằng họ không cần những dấu hiệu kỹ thuật hướng dẫn mua vào và bán ra cổ
phiếu. Họ tin rằng nên mua và nắm giữ cổ phiếu tăng trưởng và sẵn sàng chấp nhận
bất kỳ đợt biến động giá nào miễn là hoạt động của công ty đó vẫn diễn ra tốt đẹp.
Đối với nhà đầu tư tăng trưởng, phương pháp thời điểm không quan trọng bằng các
phương pháp khác vì cổ phiếu tăng trưởng được nắm giữ trong một khoảng thời
gian dài.
Tuy nhiên bạn vẫn cần có
những công cụ dự báo để tránh phạm sai lầm. Như chúng tôi đã nói, việc lợi nhuận
của cổ phiếu tăng trưởng cao giảm từ 50-75% diễn ra khá phổ biến. Nếu mắc phải
những rắc rối kiểu này, danh mục đầu tư của bạn có thể không hoạt động tốt
trong một vài năm.
Hơn nữa, khi giá cổ phiếu
tăng trưởng giảm, đặc biệt là khi giảm sút nghiêm trọng (hơn 20%), với tư cách
là một cổ đông, bạn không thể biết chắc chắn rằng đó có phải là sự bắt đầu của
một đợt sụt giảm trường kỳ hay không. Hãy xem xét giai đoạn khó khăn của các công
ty kinh doanh mạng vào năm 2000 và 2001, tình trạng giảm giá từ 70-90% diễn ra
khá phổ biến. Những đợt sụt giảm nhanh chóng như vậy là do người ta dần nhận ra
rằng quảng cáo trên mạng không còn hiệu quả như trước nữa. Thậm chí các công ty
kinh doanh quảng cáo thành công như Amazon.com vẫn phải đối mặt với những đợt sụt
giảm doanh thu nhanh chóng. Hiện
nay, giá cổ phiếu của các công ty kinh doanh mạng đã rơi vào thời kỳ sụt giảm
và còn quá sớm để biết sự sụt giảm này diễn ra trong ngắn hạn hay dài hạn.
Những đợt sụt giảm như vậy
cũng xảy ra ở ngành công nghệ sinh học. Đầu thập niên 1970, các nhà đầu tư đã rất
thành công với các cổ phiếu thuộc ngành này. Sau đó, họ nhận ra rằng, thách thức
về kỹ thuật vượt quá suy nghĩ ban đầu và quá trình đạt được sự đồng ý của Cơ
quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA) hóa ra lại mất nhiều thời gian và khó
khăn hơn họ nghĩ rất nhiều. Thực tế, toàn bộ ngành đã rơi vào giai đoạn sụt giảm.
Cuối những năm 1980, giá các cổ phiếu của ngành giảm chỉ còn gần 60%. Sau đó,
ngành này đã hồi phục và tăng trưởng gấp khoảng mười lần trong suốt thập niên
1990, rồi lại tiết tục đi theo vết xe của các công ty kinh doanh mạng. Thực tế,
các khu vực khác bao gồm cổ phiếu quỹ đầu tư bất động sản và cổ phiếu nhượng
quyền kinh doanh cũng phải trải qua những đợt sụt giảm tương tự. Không ai có thể
tiên đoán được tất cả những gì sẽ xảy ra. Vậy, tại sao chúng ta không sử dụng
các công cụ dự báo kỹ thuật để chống lại những đợt sụt giảm nghiêm trọng. Xác định
điểm bán ra, điểm dừng để bảo vệ lợi nhuận của bạn rõ ràng cũng rất cần thiết.
Bảo vệ lợi nhuận
Để bảo vệ lợi nhuận, bạn
nên đặt lệnh chặn lỗ mềm dẻo khi giá xuống, điều này có nghĩa là bạn nên định
giá lại cổ phiếu nếu nó giảm xuống một mức giá cụ thể, như mức giá duy trì. Bạn
có thể đặt chương trình báo động bằng thư điện tử trong các danh mục đầu tư trực
tuyến. Chỉ cần nhập mức giá chặn lỗ vào mục giá tối thiểu. Khi giá cổ phiếu
tăng lên, hãy đảm bảo mức giá chặn lỗ cũng tăng lên để nó luôn nằm trong 10%
giá trị hiện tại của cổ phiếu. Khi nhận được một báo động bằng thư điện tử
thông báo rằng cổ phiếu đã đạt tới mức giá này, bạn hãy đánh giá lại khả năng
bán ra của cổ phiếu đó. Không nên sử dụng lệnh chặn lỗ cứng nhắc,loại lệnh tự động
bán vì nó có thể bán những cổ phiếu mà bạn không muốn bán.
Kỹ thuật bán ra có thể kết
hợp với công cụ dự báo thời điểm thích hợp, chẳng hạn như hai đường trung bình
di động gặp nhau ở một điểm trung bình di động giao nhau hay đường trung bình động
MACD hàng tuần. Nếu bạn sử dụng điểm trung bình di động giao nhau, bạn có thể định
giá lại cổ phiếu khi nó hạ xuống thấp hơn trị giá trung bình 50 ngày chuyển vận,
giống như tình huống Cisco đã gặp phải vào tháng 4/2000 (xem Biểu đồ 4.7). Nếu
bạn sử dụng MACD, bạn sẽ đánh giá lại cổ phiếu khi nó rơi vào vùng âm trên đường
trung bình di động MACD, như Cisco từng thực hiện khi giá cổ phiếu của công ty
thấp hơn trị giá trung bình 50 ngày chuyển vận (xem Biểu đồ 4.8).
Trong “Câu chuyện về hai
loại cổ phiếu” ở phần giới thiệu, chúng tôi đã nói với bạn về hai loại cổ phiếu
– M. S. Carriers (MSCA) và Vignette Corporation (VIGN). Biểu đồ cổ phiếu I.1
cho thấy giá cổ phiếu của MSCA tiếp tục tăng lên trong khi VIGN lại đi xuống.
Đây là lúc mà một dấu hiệu thời điểm, như đường MACD hàng tuần, sẽ cứu bạn
thoát khỏi sự sụt giảm của VIGN và giúp bạn tăng lợi nhuận với MSCA. Như bạn có
thể thấy trong Biểu đồ 4.8, đường MACD hàng tuần của VIGN xuống dốc vào ngày
16/11. Điều đó cho thấy bạn nên thoát ra khỏi cổ phiếu này ngay sau khi mua nó
và không quay trở lại vì đường MACD hàng tuần vẫn âm trong suốt tháng 12. Vì
Swift Transportation (SWFT) đã mua MSCA vào tháng 6/2001 nên biểu đồ cổ phiếu của
MSCA sẽ biến mất. Tuy nhiên, nhờ thế, đường MACD hàng tuần của MSCA sẽ không
còn nằm ở vị trí tiêu cực nữa và lợi nhuận của bạn sẽ tăng đến tối đa.
Có rất nhiều phương pháp giao dịch kỹ thuật giúp bạn
xác định thời điểm bán ra.
Lựa chọn thời điểm mua
vào cổ phiếu tăng trưởng không quá khó khăn, nhưng bạn nên sử dụng cùng một
công cụ dự báo để mua cổ phiếu và hạn chế tổn thất. Nói cách khác, nếu bạn bán
một cổ phiếu vì lý do đường MACD hàng tuần nằm ở vị trí xấu, thì không có nghĩa
là bạn sẽ mua một cổ phiếu có hay sắp sửa có dấu hiệu tiêu cực. Tương tự như vậy,
nếu sử dụng trị giá trung bình 200 ngày chuyển vận làm dấu hiệu để bán ra, bạn
đừng mua vào những cổ phiếu thấp hơn giá trị trung bình đó. Hãy chờ đến khi giá
cổ phiếu hồi phục trên mức trung bình.
Các
chiến lược danh mục đầu tư tăng trưởng
Danh mục đầu tư tăng trưởng
tương đối dễ quản lý. Mặc dù việc xây dựng danh mục đầu tư tăng trưởng đòi hỏi
nhiều thời gian và công sức, nhưng khi đã đầu tư toàn bộ, bạn không cần quan
tâm đến nó mỗi ngày nữa. Với những chương trình báo động bằng thư điện tử thông
báo biến động giá hay tin tức bất thường, bạn có thể kiểm tra các biểu đồ cổ
phiếu một tuần một lần và những tin tức trong quá trình đầu tư.
Dưới đây là một số chiến lược quản lý danh mục đầu tư:
•
Đa
dạng hóa cổ phiếu và ngành đầu tư: Cổ phiếu tăng trưởng thường có độ rủi ro cao
(xem lại phần Tính bất ổn của tỷ số P/E cao) nên sự đa dạng hóa là rất quan trọng.
Bạn có thể đa dạng hóa bằng cách nắm
giữ nhiều loại cổ phiếu hoặc mua cổ phiếu của nhiều ngành khác nhau.
Một nhà đầu tư khôn ngoan
sẽ có xu hướng nắm giữ từ tám loại cổ phiếu trở lên. Con số chính xác chúng tôi
khuyên bạn nên nắm giữ là 15 loại cổ phiếu để phân tán rủi ro nếu bạn có đủ thời
gian để quản lý chúng. Với 15 loại cổ phiếu, khi một cổ phiếu trong số đó giảm
đi 50% giá trị, lợi nhuận thu được từ toàn bộ danh mục đầu tư cũng chỉ giảm 3%.
Việc tìm ra 200 hay 300 công ty tăng trưởng mạnh không khó, do đó việc xây dựng
một danh mục đầu tư gồm 12-15 cổ phiếu, phân bổ chúng trong từ ba đến năm ngành
sẽ bảo vệ bạn khỏi những đợt sụt giảm bất ngờ của một trong những cổ phiếu đó.
Điều này cũng khiến bạn an tâm trong giai đoạn bất ổn của nền kinh tế sau khi
các công ty tăng trưởng cùng đưa ra cảnh báo doanh thu;
•
Thường
xuyên quản lý danh mục đầu tư: Ngay cả các nhà đầu tư tăng trưởng trung và dài
hạn cũng nên quản lý cổ phiếu của mình tối thiểu là hàng tuần để kịp thời phát
hiện những sự kiện có ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của thị trường và sự tin
tưởng của các nhà đầu tư. Với tỷ số P/E cao, cổ phiếu tăng trưởng rất nhạy cảm
với nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của khách hàng.
Trong suốt “mùa thu hoạch”
lợi nhuận, hãy đặc biệt chú ý đến danh mục đầu tư của bạn trong một hoặc hai tuần
trước khi thông báo doanh thu. Bạn cũng phải thật sự nhạy bén với những con số
khác thường. Những con số này thường có tầm quan trọng tương đương với những dự
đoán công khai;.
•
Quản
lý lượng tiền mặt: Khi thị trường mở rộng đến mức cực điểm, việc tăng lượng tiền
mặt là một cách khác giúp bạn tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Điều đó có
nghĩa là, khi các cổ phiếu đạt giá trị cao nhất, bạn nên giữ 10-30% danh mục đầu
tư dưới dạng tiền mặt bằng cách đơn giản là không thay thế những cổ phiếu ngừng
tăng trưởng do rơi vào tình trạng yếu kém.
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: TẬP ĐOÀN VIỄN THÔNG METRO ONE
Mục đích của nghiên cứu
trường hợp này là tìm ra một công ty có giá trị vốn hoá thị trường nhỏ nhưng
tăng trưởng cao để minh họa cho quá trình lựa chọn cổ phiếu tăng trưởng.
Metro One (MTON): Cổ phiếu tăng trưởng có giá trị vốn
hoá thị trường nhỏ
Ngày 25/10/2001, tập đoàn
viễn thông Metro One (MTON) là một trong những công ty tăng trưởng cao trong
nhóm có giá trị vốn hoá nhỏ. Dung lượng vốn thị trường của nó là 689,3 triệu đô
la và tỷ số P/E là 23,7 dựa trên dự đoán EPS trong năm tài khóa 2001. MTON đạt
nhiều thành công nổi bật với những đặc điểm cơ bản của một cổ phiếu tăng trưởng:
• Tỷ lệ tăng doanh thu trong năm gần nhất (năm tài khóa
2000): 365%;
• Tỷ lệ tăng doanh thu trong năm năm trước: 87%;
• Tỷ lệ tăng doanh thu dự đoán trong một năm (năm tài
khóa 2001): 106%;
•
Tỷ
lệ tăng doanh thu dự đoán trong năm năm: 27%. Một số thông tin về MTON
Bước đầu tiên trong quy
trình đánh giá của chúng tôi là tìm hiểu về công ty. MTON cung cấp phần mềm “Hỗ
trợ danh bạ nâng cao” cho ngành viễn thông không dây tại hơn 25 trung tâm chăm
sóc khách hàng ở nhiều thành phố lớn của Mỹ. Dịch vụ trả lời điện thoại trực tiếp
là một trong những dịch vụ giá trị gia tăng của MTON. Những dịch vụ khác bao gồm
dịch vụ hoàn tất cuộc gọi, tra cứu danh bạ, dịch vụ chỉ đường chi tiết theo địa
phương, đặt nhà hàng, tra cứu sự kiện ở địa phương, tra cứu các địa điểm du lịch
và lịch chiếu phim. Khách hàng của MTON gồm có những hãng cung cấp dịch vụ
không dây lớn nhất như AT&T Wireless, Sprint PCS, Nextel, Pacific Bell
Wireless và cung cấp dịch vụ điện thoại cố định cho hãng truyền thông GST.
Phân tích biểu đồ
Nhìn vào Biểu đồ 4.9, bạn
có thể thấy giá cổ phiếu của MTON đã tăng từ 6 đô la năm 2000 lên 44 đô la vào
giữa năm 2001. Nó đã mất đi một phần lợi nhuận sau tháng 7/2001, nhưng cuối
tháng 10, giá cổ phiếu của công ty vẫn cao hơn mức giá thấp của năm 2000. Trong
hơn ba năm, giá cổ phiếu của MTON tăng 10 đô la, ngay cả khi các cổ phiếu khác
đang hoạt động kém hiệu quả vào nửa cuối năm 2000 và nửa đầu năm 2001. Sự khôi
phục của cổ phiếu này từ mức giá thấp 22 đô la ngày 25/9 lên 31 đô la cuối
tháng 10 là rất đáng khích lệ.
Những tiêu chí
đánh giá cổ phiếu tăng trưởng
MTON đã tăng doanh thu
lên 365% trong năm tài khóa 2000 và tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là 87% trong năm
năm trước đó. Doanh thu và lượng tiền mặt cũng tăng vọt trong thời kỳ này. Kể từ
khi đạt mức giá kỷ lục vào tháng 7/2001, cho đến cuối tháng 10, MTON đã mất đi
50% giá trị do lợi nhuận giảm và phải bán phá giá sản phẩm sau những cuộc tấn
công khủng bố, nhưng sau đó lại hồi phục ở mức 31 đô la. Vào thời điểm chúng
tôi viết cuốn sách này, MTON vẫn là cổ phiếu được xếp hạng cao với những đặc điểm
tăng trưởng và đáp ứng được danh sách tiêu chuẩn đánh giá cổ phiếu tăng trưởng:
•
Tỷ
lệ tăng trưởng trong quá khứ: Với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu trong năm năm là
87% và tỷ lệ tăng doanh thu trong năm trước đó là 365%, MTON đứng thứ 99 trong
nhóm những cổ phiếu tăng trưởng ngắn hạn và thứ 97 trong nhóm cổ phiếu tăng trưởng
dài hạn;
•
Sự
điều chỉnh của các nhà phân tích: Các nhà phân tích điều chỉnh mức dự đoán tăng
lên 0,9% trong năm tài khóa 2001. Điều này đặc biệt đáng lưu ý vì trong tháng
10/2001, điều chỉnh giảm chiếm ưu thế hơn điều chỉnh tăng;
•
Những
bất ngờ về doanh thu: MTON có bốn bất ngờ về doanh thu trong bốn quý trước đó.
Điều này rất đáng chú ý trong giai đoạn đất nước đang gặp khủng hoảng do suy thoái;
•
Số
lượng nhà phân tích: Sáu nhà phân tích theo dõi công ty MTON, đó là số lượng
khá nhiều cho một cổ phiếu có giá trị vốn hoá
nhỏ;
•
Khuyến
cáo mua/nắm giữ/bán: Có năm khuyến cáo mua, một khuyến cáo nắm giữ và không có
khuyến cáo bán nào;
•
So
sánh với ngành và chỉ số S&P 500: Tỷ số P/E và tỷ lệ tăng trưởng của MTON
tương đối tốt khi so sánh với chỉ số S&P 500 và nhóm ngành:
•
Tin
tức gần đây: Ngày 16/10/2001, MTON xếp thứ 6 trong danh sách 200 công ty có kết quả hoạt động tuyệt vời nhất nước Mỹ
do Tạp chí Forbes bình chọn;
•
Giao
dịch nội bộ: Không có thành viên nào trong nội bộ công ty mua cổ phiếu vào thời
điểm nghiên cứu. Lượng bán ra trong nội bộ công ty cũng rất ít, số cổ phiếu bán
ra chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Rất nhiều người bán đang sử dụng hợp đồng quyền chọn.
Các công ty kỹ thuật thường sử dụng cổ phiếu làm động lực để khích lệ nhân
viên. Điều này khiến việc bán ra cổ phiếu của những người trong nội bộ công ty
không gây ra ảnh hưởng gì lớn;
•
Tính
bất ổn: Cổ phiếu này rơi vào tình trạng rất bất ổn kể từ tháng 7/2001, chủ yếu
là do mất lợi nhuận trên thị trường.
Đây là điểm khá bất lợi;
•
Đà
tăng trưởng đi lên: Mặc dù bắt đầu giữa tháng 7/2001 xu hướng đi xuống xuất hiện
(và hồi phục không đáng kể) nhưng cuối tháng 10, cổ phiếu này đang có những dấu
hiệu tăng trưởng;
•
Hoạt
động của nhóm ngành: Chín tháng trước đó, ngành viễn thông/nhóm ngành dịch vụ
và thiết bị đang trong trạng thái ảm đạm. Giữa tháng 10/2001, tình hình khả
quan hơn. Cần lưu ý rằng vào thời điểm thực hiện nghiên cứu này, trong khi giá
trị của MTON giảm 33% thì nhóm ngành của nó giảm 70%. Do đó, cổ phiếu này hoạt
động tốt hơn so với nhóm ngành của nó. Tuy nhiên, việc hoạt động kém hiệu quả của
nhóm ngành vẫn có ảnh hưởng tiêu cực đến MTON.
Kết luận: MTON là một cổ phiếu tăng trưởng hiếm có
Với doanh thu đang tăng
cao, tỷ lệ tăng trưởng dòng tiền mặt cao và sự điều chỉnh tăng trong dự đoán
doanh thu ngắn hạn gần đây, MTON là cổ phiếu có mức giá hấp dẫn vào thời điểm
tháng 10/2001. Cổ phiếu đã tăng trưởng trở lại sau khi tìm được lối thoát ở mức
giá 20 đô la, đặc biệt là trong ngắn hạn. Mặc dù các nhà phân tích đã tăng mức
doanh thu dự đoán cho năm tài khóa 2001, người ta vẫn không hy vọng năm 2002,
MTON sẽ tăng trưởng cao hơn. Tuy nhiên, dù thế nào, dự đoán EPS trong năm năm
tăng 27% đã khiến MTON trở thành một cổ phiếu tăng trưởng hiếm có, đặc biệt kể
từ khi cổ phiếu này có tốc độ tăng trưởng khác thường từ trước đó.
CÁC QUỸ ĐẦU TƯ DÀNH CHO NHÀ ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG
Nếu thích lý thuyết đầu
tư tăng trưởng nhưng lại không muốn tự mình thực hiện, bạn hãy tham gia các quỹ
đầu tư tăng trưởng. Quỹ tăng trưởng được chia ra thành quỹ giá trị vốn hoá nhỏ,
trung bình, lớn và các quỹ tăng trưởng cổ phiếu quốc tế. Quỹ tăng trưởng sẽ có
từ “tăng trưởng” trong tên gọi của nó, nhưng điều này không phải lúc nào cũng
đúng. Chẳng hạn, Quỹ American Xury là một quỹ tăng trưởng nổi bật trong lĩnh vực
khoa học đời sống và công nghệ và nó có tên là “Các quỹ chuyên ngành”.
Gần đây, trong các quỹ
tương hỗ truyền thông xuất hiện một loại hình quỹ mới: Quỹ giao dịch trao đổi
(ETFs) (Xem “Sự phát triển của ETFs”). Một số quỹ ETFs được xây dựng theo mô
hình quỹ tăng trưởng, bao gồm những quỹ giao dịch trao đổi iShares và
streetTracks dưới đây:
iShares S&P500 (IVW)
iShares S&P MidCap 400 (IJK)
iShares
S&P SmallCap 600 (IJT)
iShares Russell (IWF)
Growth Index (IWF) iShares Russell (IWO) Growth Index (IWO) iShares Russell
(IWZ) Growth Index (IWZ)
streetTRACKS DJ US Large
Cap Growth (ELG) streetTRACKS DJ US Small Cap Growth (DSG)
Ngoài ra, còn có những quỹ
ETFs định hướng tăng trưởng ở những ngành tăng trưởng như công nghệ sinh học,
viễn thông, chất bán dẫn và mạng.
Sự phát triển của ETFs
Quỹ giao dịch trao đổi
(ETFs) là một quỹ đầu tư mới đã trở nên phổ biến trong hơn hai năm qua. Các quỹ
này linh hoạt, dễ giao dịch, tiết kiệm chi phí và đa dạng. Ngoài ra, chúng nộp
thuế nhiều hơn những quỹ tương hỗ. Được Barclay (một trong những nhà tài trợ
chính của ETFs) gọi là “phép lai giữa cổ phiếu và quỹ”, quỹ giao dịch trao đổi
là một nhóm cổ phiếu chỉ số hóa được mua bán trên sàn giao dịch cổ phiếu với tư
cách là một cổ phiếu. Hai quỹ ETFs đầu tiên là: quỹ SPDR, dựa trên chỉ số
S&P 500 và quỹ DIAMONDS, dựa trên chỉ số Dow Jones. Tiếp theo là quỹ MidCap
SPDR, dựa trên chỉ số S&P MidCap 40; quỹ WEBs dựa trên chỉ số tài chính của
Morgan Stanley và Barclays; và quỹ QQQ, dựa trên chỉ số Nasdaq 100.
Khi khái niệm EPFs được
công nhận, EPFs phát triển nhanh chóng trong suốt năm 1999 và 2000. Ngân hàng của
Barclay đã cho ra đời quỹ iShares, dựa trên chỉ số S&P Russell và chỉ số
Dow Jones. Tập đoàn tài chính Merrill Lynch tài trợ cho một nhóm quỹ ETFs được
gọi là HOLDs đại diện cho hơn 12 lĩnh vực và nhóm ngành. Các chuyên giá tư vấn
của State Street Global đã tạo ra rất nhiều quỹ ETFs gọi là StreetTRACKS dựa
trên các chỉ số của Dow Jones, Wilshire, Morgan Stanley và tạp chí Fortune.
Hiện tại, có hơn 80 quỹ
ETFs giúp bạn gia nhập thị trường theo hướng mà bạn muốn. Con số này chắc chắn
sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Mẹo lựa chọn quỹ tăng trưởng
Hãy tự đặt ra những câu hỏi
quan trọng dưới đây khi đánh giá một quỹ đầu tư tăng trưởng. Trả lời chúng, bạn
sẽ nắm được hầu hết các thông tin về lịch sử hình thành và phát triển hay bản
cáo bạch của quỹ.
•
Quỹ
đã công bố những mục tiêu nào? Hãy tập trung vào những quỹ có mục tiêu tăng trưởng
vốn. Một số quỹ nói “tăng trưởng mạnh” trong khi những quỹ khác chỉ nói “tăng
trưởng và doanh thu”. Vế đằng sau sẽ phù hợp với những nhà đầu tư tăng trưởng
kém năng động hơn;
•
Quỹ
áp dụng chiến lược đầu tư nào? Các quỹ thường tuyên bố chiến lược đầu tư của
mình trong bản cáo bạch và bản tóm tắt trực tuyến. Hãy xem xét những quỹ tăng
trưởng cao và chú ý đến giá trị vốn hoá thị trường, nếu điều đó quan trọng đối
với bạn;
•
Có
những yếu tố rủi ro nào? Các yếu tố rủi ro của một quỹ tăng trưởng có thể được
xếp theo hai mức “rủi ro cao” hay “rủi ro vừa phải”. Lịch sử hình thành và phát
triển quỹ cũng có thể chỉ rõ độ bất
ổn và rủi ro khu vực;
•
Tình
hình hoạt động trước đây thế nào? Chú ý đến tình hình hoạt động của quỹ trong một,
ba và năm năm trước. Tình hình hoạt động của quỹ trước đó có thể cung cấp nhiều
thông tin có giá trị;
•
Ai
là người quản lý danh mục đầu tư? Hãy lưu ý đến số năm kinh nghiệm và thành tích trong quá khứ của họ;
•
Quỹ
có được Morningstar xếp hạng hay không? Morningstar thường xếp hạng các quỹ
theo thứ tự từ một đến năm sao. Việc xếp hạng này phản ánh tình hình quản lý rủi
ro của quỹ trước đây. Bốn đến năm sao được coi là hoàn hảo, nhưng hãy nhớ rằng
phương pháp xếp hạng theo sao của Morningstar dựa trên quá khứ và không nhất
thiết dựa trên dự đoán tương lai (xem trang web: www. morningstar.com);
•
Mười
cổ phiếu hàng đầu là gì? Hầu hết các quỹ đều niêm yết danh sách năm hay mười cổ
phiếu hàng đầu, mặc dù danh sách này có thể được thay đổi mà không cần thông
báo. Một số quỹ còn công bố những lĩnh vực chính mà quỹ đầu tư vào;
•
Quỹ
có tiến hành đa dạng hóa không? Hãy đảm bảo rằng bạn phân bổ vốn đầu tư vào các
quỹ thuộc các lĩnh vực khác nhau (và cả những kiểu quỹ khác nhau). Hoặc, bạn có
thể tiến hành đa dạng hóa bằng việc kết hợp quỹ trong nước với quỹ quốc tế;
•
Bạn
đã xem xét đến quỹ ETF chưa? Nếu bạn muốn đầu tư vào một lĩnh vực hay một ngành cụ thể, bạn nên đầu tư vào một quỹ
giao dịch trao đổi (ETF) thay vì mua cổ phiếu trong ngành đó.
Công cụ tìm kiếm quỹ
Cách tốt nhất để tìm ra một
quỹ phù hợp với mục tiêu của bạn là sử dụng một số công cụ tìm kiếm miễn phí
trên mạng. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói tóm lược về công cụ tìm kiếm trên trang
web Fidelity.com.
Nguồn
thông tin trực tuyến về cổ phiếu tăng trưởng
Nguồn thông tin trực tuyến
về cổ phiếu tăng trưởng rất đa dạng. Khi sử dụng một trong những từ khóa như quỹ
tăng trưởng mạnh, cổ phiếu tăng trưởng mạnh, công ty hàng đầu, các cổ phiếu
tăng trưởng đang nổi lên, doanh thu đang tăng, những chuyên gia về cổ phiếu, bản
tin hàng tuần về cổ phiếu tăng trưởng, tăng trưởng doanh thu dự đoán cao nhất,
các cổ phiếu siêu tăng trưởng, Peter Lynch, v.v… trên bất kỳ công cụ tìm kiếm
nào, bạn đều có thể tìm thấy những trang web liên quan đến đầu tư tăng trưởng
Tìm kiếm các Quỹ
Trang web Fidelity.com
(www.100.fidelity.com) không chỉ nói đến quá trình hình thành phát triển của quỹ
Fidelity mà còn cung cấp một công cụ tìm kiếm những quỹ phù hợp bằng từ khóa cụ
thể. Chúng tôi đã thử tìm kiếm từ khóa tăng trưởng và tìm thấy 614 kết quả. Các
kết quả này được phân loại dựa trên kiểu quỹ, mục đích đầu tư (tăng trưởng,
tăng trưởng mạnh, tăng trưởng và doanh thu), giá trị vốn hoá thị trường (lớn, vừa
và nhỏ) và tên gọi chính thức của quỹ. Nhấn chuột vào tên một quỹ để xem lịch sử
hình thành và phát triển, bạn sẽ tìm được mục đích của quỹ, chỉ số hoạt động, xếp
hạng của Morningstar, cách thức quản lý và những thông tin khác.
LỜI KHUYÊN ĐỂ ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG THÀNH CÔNG
Đầu tư tăng trưởng có tỷ
lệ thành công cao nhưng luôn đi kèm với rủi ro cao. Dưới đây là một số lời
khuyên sẽ giúp bạn trở thành một nhà đầu tư tăng trưởng thành công:
1. Không để cảm xúc ảnh hưởng đến đầu
tư: Đây là quy tắc hàng đầu đối với bất kỳ nhà đầu tư nào;
2. Tìm kiếm cổ phiếu hội tụ đủ ba yếu tố:
Hãy lựa chọn những cổ phiếu có đủ cả ba đặc điểm của một cổ phiếu tăng trưởng tốt:
thương hiệu mạnh, quản lý hiệu quả và công nghệ cao;
3. Kiểm tra cổ phiếu qua GARP: Hãy chắc
chắn rằng bạn đang đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng với mức giá không cao hơn
1,5 lần tỷ lệ tăng doanh thu. Bất cứ cổ phiếu nào có mức giá cao hơn sẽ khiến bạn
gặp rủi ro bởi tác hại của cổ phiếu có tỷ số P/E cao;
4. Xác định thời điểm mua vào: Bạn nên
hiểu rõ tầm quan trọng của những dấu hiệu bán ra và nên sử dụng những công cụ dự
báo kỹ thuật để xác định thời điểm bán ra và mua vào. Nếu bạn bán ra khi một cổ
phiếu đang ở mức thấp hơn trị giá trung bình 50 ngày chuyển vận, đừng mua một cổ
phiếu đang ở mức thấp hơn trị giá trung bình 50 ngày chuyển vận. Hãy đợi cho đến
khi nó ở trên mức trung bình;
5. Xem xét xu hướng ngành: Nếu một công
ty khác thuộc ngành bạn đầu tư đang bắt đầu đi xuống, đó là dấu hiệu gây phiền
toái cho toàn ngành và dấu hiệu kết thúc quá trình tăng trưởng cao của tất cả
các cổ phiếu liên quan. Nhưng bạn vẫn phải đánh giá cổ phiếu của mình. Một số
công ty mạnh có thể vượt qua các đợt sụt giảm có tính chu kỳ. Chẳng hạn, khi
công việc kinh doanh của những nhà bán lẻ khác sa sút trong suốt thời kỳ suy
thoái của ngành công nghiệp bán lẻ, Wal-Mart vẫn tiếp tục lớn mạnh. Chính tầm
nhìn đặc biệt, mô hình kinh doanh độc đáo và sức mạnh thương hiệu đã giúp
Wal-Mart vượt qua cơn bão;
6. Lưu ý đến những điều bất ngờ: Những bất
ngờ về doanh thu là dấu hiệu tốt của cổ phiếu tăng trưởng, bởi những công ty
tăng trưởng cao thường hoạt động tốt hơn cả mong đợi của thị trường. Các công
ty này thường vượt qua ngưỡng dự đoán doanh thu và do đó, tạo ra những bất ngờ
doanh thu mang tính tích cực;
7. Thiết lập những điểm chặn lỗ an toàn:
Việc đặt ra những điểm chặn lỗ khi giá xuống nhằm bảo vệ lợi nhuận của bạn và
giúp bạn tránh khỏi đợt sụt giảm mạnh. Nhập điểm dừng vào chương trình thông báo qua thư điện tử về danh mục đầu
tư và khi giá cổ phiếu giảm xuống mức giá chặn lỗ, hãy định giá lại cổ phiếu;
8. Chú ý đến lợi nhuận đang tăng: Lợi
nhuận tăng là một trong những dấu hiệu tích cực nhất cho thấy doanh thu đang
tăng. Nếu lợi nhuận từ cổ phiếu tiếp tục tăng trong nhiều quý, chứng tỏ bạn
đang đi đúng hướng. Bạn sẽ tìm thấy thông tin này trong báo cáo 10K và 10Q;
9. Sử dụng phương pháp “Chi phí đô la
trung bình”: Nếu lượng vốn của bạn có giới hạn, hãy đầu tư vào cổ phiếu tăng
trưởng. Bạn hãy đầu tư vào các mức giá khác nhau, có thể là mức giá cao hoặc thấp;
10. Suy nghĩ trong dài hạn: Các nhà đầu
tư tăng trưởng mua và nắm giữ cổ phiếu của các công ty với hy vọng cổ phiếu này
sẽ tiếp tục tăng đột biến và không bị tác động bởi tình hình thị trường. Nhưng
tất cả các cổ phiếu rồi sẽ phải đổi chiều, đặc biệt là cổ phiếu tăng trưởng với
tỷ số P/E cao. Nhưng nếu bạn mua vào khi tỷ số P/E đã tăng đến mức cực điểm,
trong thời gian ngắn hạn, bạn sẽ cảm thấy thất vọng khi cổ phiếu trải qua những
đợt tăng giảm thông thường. Khi cổ phiếu đó biến động, hãy quan sát thật kỹ. Nếu
những nhân tố ban đầu tác động khiến bạn mua cổ phiếu vẫn tồn tại, bạn nên nắm
giữ cổ phiếu đó. Toàn bộ cơ sở của đầu tư tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng
trong dài hạn tạo nên sự thay đổi xu hướng nhất thời và sự ưa chuộng trên thị
trường cổ phiếu;
11. Nhận biết thời điểm bán ra: Bạn nên
bán một cổ phiếu tăng trưởng khi nó không còn tăng trưởng nữa. Điều này có
nghĩa là bạn phải thường xuyên xem xét lại cổ phiếu trong danh mục đầu tư của
mình. Hãy quan sát xem liệu nhãn hiệu bạn đã mua, đội ngũ quản lý mà bạn đã
thuê và công nghệ mà bạn đã mua còn tiếp tục giữ vị trí thống trị hay không. Nếu
hiện tại, dựa trên những gì bạn biết, bạn không tiếp tục mua cổ phiếu đó nữa
thì đó là thời điểm nên bán ra;
12. Nhận biết thời điểm mua vào: Nếu bạn
tìm thấy một cổ phiếu có những đặc điểm tăng trưởng tốt hơn cổ phiếu suy yếu nhất
trong danh mục đầu tư của bạn, đó có lẽ là thời điểm nên thay thế cổ phiếu suy
yếu đó.
CHƯƠNG 5. Chiến
lược đầu tư giá trị
Về bản chất, nhà đầu tư
giá trị chuyên đi săn lùng các món hời. Họ giống như người đi mua hàng, thường
ghé thăm các cửa hàng giảm giá hay chiết khấu và mặc cả khi mua bất cứ thứ gì.
Nếu cổ phiếu hạ giá, nhà đầu tư giá trị sẽ là người đầu tiên mua nó. Về cơ bản,
sở thích của nhà đầu tư giá trị là tìm kiếm cổ phiếu có mức giá hấp dẫn. Tuy
nhiên, họ không dừng lại ở đó. Cái mà họ tìm kiếm là cổ phiếu được định giá thấp
hơn so với tăng trưởng doanh thu trong quá khứ và triển vọng tăng trưởng doanh
thu trong tương lai. Cả trong lý thuyết và thực tế, đầu tư giá trị là phương
pháp có nguy cơ rủi ro thấp nhất trong các phong cách đầu tư chính.
Điều này có thể hiểu được.
Như đã phân tích trong Chương 1, nhận thức của thị trường và sự tin tưởng của
các nhà đầu tư là những nhân tố chi phối giá cổ phiếu. Giá cổ phiếu ở mức thấp
(bị giảm giá trị) thể hiện thái độ tiêu cực của thị trường đối với tương lai
công ty. Nếu bạn mua một cổ phiếu bị định giá dưới giá trị so với lịch sử và
triển vọng doanh thu, rồi sau đó bán đi khi nó đã hồi phục giá trị thì bạn sẽ
thu được một khoản lợi nhuận đáng kể ở mức rủi ro thấp.
Chúng ta cần phải hiểu rõ
cụm từ “dưới giá trị” và “quá giá trị”. Trong điều kiện kinh tế bình thường, một
cổ phiếu sẽ ở mức dưới giá trị nếu tỷ số P/E thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng EPS được
kỳ vọng trong tương lai. Ngược lại, nó sẽ quá giá trị nếu tỷ số P/E cao hơn tỷ
lệ tăng trưởng EPS trong tương lai. Giả sử một công ty có doanh thu đang tăng với
tỷ lệ 20%/năm. Nếu tỷ số P/E của công ty là 15 thì cổ phiếu này bị định giá dưới
giá trị. Còn nếu tỷ số P/E là 25 thì cổ phiếu này được định giá trên giá trị.
Trong điều kiện kinh tế bất thường hay những giai đoạn có lãi suất cao, tỷ số
P/E đối với những cổ phiếu định giá trên hay dưới giá trị cũng thay đổi.
Cổ phiếu thường có xu hướng
trải qua những chu kỳ dưới giá trị và trên giá trị. Trên giá trị có thể đạt được
nhờ cái mà Giám đốc Cục Dự trữ liên bang Mỹ Alan Greenspan gọi là “sự dồi dào
phi lý” của thị trường. Dưới giá trị là kết quả của sự bi quan kéo theo, cái mà
nhà đầu tư giá trị nổi tiếng nhất thế giới Warren Buffett miêu tả: “Nguyên nhân
phổ biến nhất khiến mức giá xuống thấp là sự bi quan lan rộng, đôi khi chỉ xảy
ra ở một công ty hay một ngành nào đó. Chúng ta muốn kinh doanh trong một ngành
như vậy không phải vì chúng ta thích sự bi quan mà là vì chúng ta thích mức giá
trong đó. Chính sự lạc quan là kẻ thù của các nhà đầu tư khôn ngoan”.
Một ví dụ điển hình của sự
dồi dào phi lý đã xảy ra trong lĩnh vực kinh doanh mạng năm 1998-1999, tạo ra sự
bi quan, rồi dẫn tới sự sụp đổ của lĩnh vực này trong năm 2000. Sự dồi dào phi
lý khiến cổ phiếu của các công ty kinh doanh mạng có giá trị vượt quá mức giá
tiêu chuẩn. Sau đó, sự thất vọng lại khiến chúng tụt xuống mức giá dưới giá trị.
Tỷ lệ tăng trưởng
trong quá khứ và tương lai, tỷ lệ nào quan trọng hơn?
Rõ ràng cả hai đều quan
trọng vì chúng ta dự đoán tương lai thông qua sự thể hiện của cổ phiếu trong
quá khứ. Chẳng hạn, hai cổ phiếu đều được dự đoán sẽ tăng trưởng với tỷ lệ 25%/năm.
Trong năm năm qua, doanh thu của cổ phiếu A và B tăng trưởng ở mức lần lượt là
30% và 10%. Theo bạn, cổ phiếu nào có nhiều cơ hội đạt được tỷ lệ tăng trưởng
trong tương lai là 25% hơn? Câu trả lời chắc chắn là cổ phiếu A. Doanh thu từng
quý cũng rất quan trọng khi xác định xu hướng gần nhất. Nhưng điều quan trọng
nhất là tỷ lệ tăng doanh thu trong tương lai dựa trên tỷ lệ tăng doanh thu
trong quá khứ. Không thể dự đoán chính xác tỷ lệ tăng trưởng doanh thu bằng một
con số, nó luôn luôn chỉ là phán đoán cá nhân.
Như vậy, một công ty có cổ
phiếu dưới giá trị có thể đã trải qua những quý tăng trưởng và sụt giảm. Nó có
thể đã gặp rất nhiều khó khăn vì những lý do xuất phát từ trong công ty hoặc do
tác động của các điều kiện kinh tế. Tóm lại, điều bạn cần làm là cố gắng mua những
cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng cao nhất với số vốn đầu tư ít nhất. Những
chương trình sàng lọc có chất lượng sẽ giúp bạn tìm ra cổ phiếu giá trị.
Ngoài ra, cổ phiếu có thể
bị giảm xuống dưới giá trị còn do các yếu tố khác như tính chu kỳ của ngành, sự
biến động thường xuyên của thị trường; hoặc do những nguyên nhân cụ thể như sản
phẩm thất bại tạm thời, tác động tiêu cực của những tin đồn, sự sợ hãi vô căn cứ
hay sự nổi lên của các đối thủ lớn và có triển vọng hơn; hoặc do chính nền kinh
tế lại kéo thị trường đi xuống, chẳng hạn như cuộc suy thóai xảy ra vào mùa thu
năm 2001. Dù là vì nguyên nhân nào, số lượng cổ phiếu dưới giá trị mà các nhà đầu
tư giá trị có thể lựa chọn luôn ở mức dư thừa. Điều then chốt là phải tìm kiếm
những công ty có cổ phiếu dưới giá trị và có khả năng hồi phục. Chúng tôi sẽ
bàn kỹ vấn đề này trong phần sau của chương.
Lý do thuyết phục nhất
cho việc trở thành nhà đầu tư giá trị là khi đầu tư vào một cổ phiếu dưới giá
trị, bạn sẽ thu được lợi nhuận từ tỷ số P/E đang tăng. Ngoài ra, còn có một lợi
ích khác nữa. Trên lý thuyết, sự tăng giá cổ phiếu cần theo kịp doanh thu để đảm
bảo nhà đầu tư có thể thu lợi khi doanh thu tăng dù giá trị tương đối của công
ty không đổi vì P/E không đổi. Chẳng hạn, nếu bạn mua một cổ phiếu có tỷ số P/E
bằng 12 và tỷ lệ tăng doanh thu là 20%, giá cổ phiếu cần tăng 20% mỗi năm dù tỷ
số P/E không thay đổi. Với điều kiện các thông số khác không đổi, chỉ cần cổ
phiếu có doanh thu, nó sẽ tạo ra mức lợi nhuận tương đương với mức tăng giá.
BIỂU ĐỒ PQ CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ GIÁ TRỊ
Sự ưa thích những món hời
và khuynh hướng tránh rủi ro khiến một nhà đầu tư gia nhập đội ngũ những nhà đầu
tư giá trị. Nhưng để thành công bằng phương pháp đầu tư giá trị, nhà đầu tư cần
có thêm những phẩm chất khác nữa. Hãy nhìn vào Biểu đồ 5.1. Trong đầu tư giá trị,
các yếu tố như kiên nhẫn, thời gian đầu tư và sự tin tưởng của nhà đầu tư đều
được đánh giá cao. Nhà đầu tư giá trị là nhà đầu tư dài hạn điển hình vì họ mất
rất nhiều thời gian nghiên cứu thị trường để phát hiện một cổ phiếu dưới giá trị,
mua và chờ đợi cho đến khi nó hồi phục giá trị mới bán. Do đó, nếu là một nhà đầu
tư giá trị, bạn phải thật kiên nhẫn để chờ đợi phần thưởng dành cho mình. Nhưng
hãy nhớ rằng, các nhà đầu tư giá trị luôn tìm kiếm cổ phiếu có doanh thu hoặc
giá trị đã tăng lên. Do đó, nếu mức doanh thu của công ty đó đã tăng lên thì ít
nhất, giá cổ phiếu phải phản ánh điều đó dù giá trị không thay đổi.
Các nhà đầu tư giá trị
thường đi ngược lại xu hướng niềm tin của các nhà đầu tư khác. Họ mua những cổ
phiếu mà họ tin tưởng trong khi giới đầu tư không bao giờ tin tưởng. Là một
nhà đầu tư giá trị, bạn cần
thiết lập một công thức hay các tiêu chí điển hình để tìm kiếm cổ phiếu có mức
giá hời. Bạn hãy sử dụng công thức “niềm tin” để xem xét, cân nhắc mỗi khi mua
một loại cổ phiếu nào đó. Hiện nay, có rất nhiều công cụ tìm kiếm hỗ trợ bạn
làm việc này. Chúng tôi sẽ đề cập kỹ vấn đề này trong phần sau của chương này.
Việc xây dựng một danh mục
đầu tư giá trị đòi hỏi khá nhiều thời gian. Tuy nhiên, khi đã chọn được danh mục
đầu tư, bạn sẽ không phải mất nhiều thời gian quản lý nó. Xem xét cả hai yếu tố
trên, chúng tôi chấm điểm 5 cho thời gian quản lý danh mục đầu tư trên biểu đồ
PQ.
Biểu đồ PQ cho nhà đầu tư giá trị.
Là nhà đầu tư giá trị, bạn
phải đánh giá những cổ phiếu dưới giá trị bằng các con số. Do đó, bạn buộc phải
có kiến thức số học trên mức trung bình. Trên thực tế, bạn phải so sánh rất nhiều
tỷ số P/E để xác định cổ phiếu đó có giá trị cao ở mức giá đó hay không. Trên
các trang web, có rất nhiều công cụ hỗ trợ bạn. Một chút kiến thức về biểu đồ
cũng rất cần thiết, do đó, bạn cần đầu tư thời gian để nghiên cứu biểu đồ.
Điểm thấp nhất trong biểu
đồ PQ về đầu tư giá trị là độ rủi ro và biến động. Như chúng tôi từng nói, đầu
tư giá trị có tỷ lệ rủi ro thấp nhất trong tất cả các phong cách, cổ phiếu dưới
giá trị hiếm khi biến động bởi thị trường hầu như không chú ý đến chúng.
Tính kỷ luật trong đầu tư
giá trị ở mức điểm trung bình. Mặc dù tất cả các nhà đầu tư đều phải có tính kỷ
luật để chấp hành những nguyên tắc trong phong cách đầu tư của mình, nhưng
không giống đầu tư theo đà tăng trưởng hay đầu tư kỹ thuật (bạn phải liên tục để
ý đến những dấu hiệu mua vào và bán ra), đầu tư giá trị không đòi hỏi phải giao
dịch thường xuyên vì thời gian đầu tư dài hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bạn vẫn cần
có tính kỷ luật để chấp hành các nguyên tắc.
NGHIÊN CỨU CỔ PHIẾU GIÁ TRỊ
Theo định nghĩa, cổ phiếu
giá trị là cổ phiếu có tỷ số P/E thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận. Chẳng hạn,
nếu một cổ phiếu có tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận là 20%, nó sẽ phải có tỷ số P/E
dưới 20% thì mới được coi là cổ phiếu giá trị. Một cổ phiếu có chỉ số P/E hiện
tại thấp hơn mức trung bình trong qua khứ (gọi là chỉ số P/E tương đối) hoặc thấp
hơn so với P/E trung bình ngành cũng là một cổ phiếu giá trị. Tuy nhiên, yếu tố
quan trọng nhất vẫn là P/E hiện tại phải thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận.
Không phải lúc nào
chúng ta cũng dễ dàng nhận ra một cổ phiếu giá trị. Hãy xem xét ví dụ dưới đây.
Cổ phiếu A có tỷ số P/E hiện tại là 15, đây là tỷ số P/E cao nhất từ trước đến
nay của cổ phiếu này. Mức tăng trưởng lợi nhuận của cổ phiếu này là 20%. Đây là
một cổ phiếu giá trị mặc dù P/E tương đối của nó khá cao. Ngược lại, cổ phiếu B
có tỷ số P/E hiện tại là 15, mức thấp nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, với mức
tăng trưởng lợi nhuận là 10%, rõ ràng cổ phiếu B không phải là một cổ phiếu giá
trị. Cổ phiếu của tập đoàn Cisco là ví dụ điển hình cho kiểu cổ phiếu B. Mùa
thu năm 2001, cổ phiếu của Cisco có tỷ số P/E là 45, thấp hơn nhiều so với tỷ số
P/E bằng 100 trong những năm trước đó. Tuy nhiên, mức tăng trưởng lợi nhuận dự
đoán của Cisco năm đó chỉ đạt 30%, cho nên mặc dù là một cổ phiếu tăng trưởng tốt,
nhưng vào thời điểm đó, Cisco không phải là cổ phiếu giá trị.
Nói tóm lại, những cổ phiếu
giá trị là hình ảnh thu nhỏ của loại cổ phiếu GARP (tăng trưởng ở mức giá hợp
lý). Cũng cần lưu ý là P/E thấp không thể hiện điều gì ngoài việc cổ phiếu đó
có triển vọng doanh thu hấp dẫn.
Hãy so sánh cổ phiếu của
công ty chuyên cung cấp thức ăn và đồ uống Dean Foods (DF) và cổ phiếu của chuỗi
cửa hàng bán lẻ Dollar Tree Strores (DLTR) để hiểu rõ hơn vấn đề này. Tháng
9/2001, cả hai cổ phiếu DF (Biểu đồ 5.2) và DLTS (Biểu đồ 5.3) đều có tỷ số P/E
xấp xỉ 20, thấp hơn so với mức trung bình của thị trường. Tỷ lệ tăng trưởng
trong năm năm trước đó của DF và DLTR tương ứng là xấp xỉ 10% và 9%; tỷ lệ tăng
trưởng lợi nhuận dự đoán công ty đó tương ứng là xấp xỉ 30% và 25%. Theo quan
điểm về giá trị, nếu mua cổ phiếu DF, bạn sẽ phải bỏ ra một khoản tiền cao gấp
hai lần để đạt được mức tăng trưởng lợi nhuận như cổ phiếu của DLTR. Trong trường
hợp này, nhà đầu tư giá trị sẽ thích cổ phiếu DLTR hơn.
Dù tỷ lệ tăng trưởng lợi
nhuận của cổ phiếu giá trị không phù hợp với cổ phiếu tăng trưởng, nhưng vì tất
cả những lý do mà chúng ta đã nhắc đến ở trên, có thể kết luận rằng nhà đầu tư
giá trị cũng có thể thu được khoản lợi nhuận tương đương với nhà đầu tư tăng
trưởng nếu họ nghiên cứu kỹ tỷ số P/E của các cổ phiếu giá trị. Nếu lợi nhuận của
một cổ phiếu trong năm nay tăng từ mức 15% lên 25%, bạn có thể dễ dàng nhìn thấy
giá cổ phiếu đó tăng 40% hoặc lớn hơn thế. Thông thường, lợi nhuận tăng 25% thì
giá cổ phiếu đó cũng tăng 25%.
Tuy nhiên, khi lợi nhuận
của cổ phiếu tăng hơn nhiều so với dự đoán thì thị trường sẽ muốn nắm giữ cổ
phiếu đó vì nó có mức tăng trưởng tương lai cao hơn dựa trên lợi nhuận. Cách giải
thích này lại liên quan đến nhận thức của thị trường và niềm tin của nhà đầu
tư. Nếu thị trường tin tưởng lợi nhuận tăng mạnh không phải là nhất thời thì
giá cổ phiếu sẽ còn tăng nữa. Khi đã hình thành lòng tin, các nhà đầu tư sẽ đẩy
giá cổ phiếu lên, làm tăng chỉ số P/E. Thậm chí khi P/E tăng lên, cổ phiếu đó vẫn
có thể được coi là cổ phiếu giá trị (ít nhất là trong một khoảng thời gian nhất
định), dù có thể không mang lại món hời nào.
Biểu đồ 5.3
Tuy nhiên, một số cổ phiếu
dưới giá trị lại không được “khám phá”. Một cổ phiếu có thể trong tình trạng dưới
giá trị nhiều năm liền. Lý do là sự lo ngại kéo dài về công ty hoặc cổ phiếu đó
không đủ hấp dẫn. Là nhà đầu tư giá trị, mục tiêu của chúng ta là mua được những
cổ phiếu vừa dưới giá trị lại vừa có triển vọng tăng trưởng lợi nhuận. Nếu bạn
chắc chắn rằng tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận của một cổ phiếu lớn hơn tỷ số P/E
thì ít nhất bạn cũng thu được lợi từ sự tăng trưởng lợi nhuận đó ngay cả khi cổ
phiếu đó vẫn dưới giá trị.
Nhìn chung, nói đến giá
trị tức là giá trị của lợi nhuận. Trong Chương 9, chúng ta sẽ bàn về những cổ
phiếu giá trị trong các bảng cân đối kế toán mạnh (được các nhà đầu tư cơ bản
quan tâm), nhưng chúng lại không phải là mục tiêu quan tâm chính của các nhà đầu
tư giá trị. Đặc điểm cốt lõi của một cổ phiếu giá trị là thị giá của nó thấp
hơn giá trị thực khi so sánh với tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận trong quá khứ và tỷ
lệ tăng trưởng dự đoán.
Khi nào một cổ phiếu giá trị không còn là cổ phiếu giá
trị?
Một cổ phiếu giá trị
không còn là cổ phiếu giá trị khi tỷ số P/E của nó cao hơn tỷ lệ tăng trưởng lợi
nhuận. Và thứ hai là khi tỷ số P/E của nó cao hơn tỷ lệ trung bình của các cổ
phiếu trong quá khứ và cùng ngành. Lý tưởng nhất là khi bạn mua được một cổ phiếu
ở mức giá rẻ, sau đó mọi người mới nhận ra giá trị của nó và giá cổ phiếu bắt đầu
tăng. Khi một cổ phiếu đạt được đầy đủ giá trị, nhà đầu tư giá trị sẽ bán chúng
và mua cổ phiếu khác có giá trị lớn hơn.
Nói một cách đơn giản nhất,
một cổ phiếu giá trị không còn là cổ phiếu giá trị khi nó không còn những đặc
điểm như khi bạn mua nó. Bạn đã mua cổ phiếu đó vì nó có tỷ số P/E thấp hơn so
với tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận, vì vậy, khi chỉ số P/E tăng đến hoặc vượt mức
trung bình – so với mức tăng trưởng lợi nhuận cũng như so với chỉ số P/E quá khứ
và P/E ngành
– thì cổ phiếu đó không còn là cổ phiếu
giá trị nữa. Khi giá cổ phiếu đó biến động tăng dần từ mức dưới giá trị đến mức
trên giá trị thì khả năng rủi ro của bạn sẽ tăng lên. Để giảm thiểu rủi ro, nhà
đầu tư giá trị sẽ không muốn nắm giữ những cổ phiếu vượt quá giá trị hay những
cổ phiếu có thị giá đúng bằng giá trị.
Tuy nhiên, nếu lợi nhuận
và giá cổ phiếu tăng với tỷ lệ giống nhau thì cổ phiếu đó vẫn giữ nguyên những
đặc điểm về giá trị như khi bạn mua nó. Đây là một điểm rất quan trọng. Hãy xem
ví dụ về một cổ phiếu có thị giá là 20 đô la so với lợi nhuận bình quân hàng
năm là 2,5 đô la và tỷ số P/E là 8. Như vậy, cổ phiếu này có lợi nhuận tăng trưởng
ở mức 20%. Nếu thị giá của cổ phiếu này cũng tăng ở mức 20% thì nó vẫn là một cổ
phiếu có giá trị. Giá cổ phiếu có thể tăng lên 24 đô la, với lợi nhuận là 3 đô
la và tỷ số P/E vẫn là 8. Tỷ số P/E không đổi và tiềm năng tăng trưởng của cổ
phiếu này vẫn giữ nguyên như hiện tại, vì thế cổ phiếu đó vẫn là một cổ phiếu
giá trị. Hãy nhớ lại thuật ngữ GARP – tăng trưởng với mức giá hợp lý (hoặc mức
giá hời) – được đo lường bởi tỷ số P/E thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận của
cổ phiếu.
Giao dịch giá trị: Tìm kiếm giá trị trong một cổ phiếu
thường
Một cổ phiếu không cần
thiết phải có giá cao mới được coi là cổ phiếu giá trị. Một cổ phiếu thường
cũng có thể hấp dẫn các nhà đầu tư giá trị bằng sự biến động giá cả của nó. Đây
là một phương thức đầu tư giá trị có thể mang lại doanh thu đáng kể.
Hãy xem xét một cổ phiếu
thông thường, như cổ phiếu của hãng hàng không hàng đầu thế giới Delta Airlines
(DAL). Khi được mua và nắm giữ trong 30 năm, Delta sẽ mang lại khoản doanh thu
từ 8-9% mỗi năm. Đó là điều bình thường. Biểu đồ 5.4 biểu diễn các đường giao dịch
diễn ra trên biểu đồ giá cả Delta trong 20 năm.
Giá cổ phiếu Delta tăng từ
5-70 đô la trong những năm 1970-1998. Trong giai đoạn này, giá cổ phiếu lên xuống
liên tục, tăng rất nhanh rồi sau đó lại lặp lại chu kỳ đó. Điều gì sẽ xảy ra nếu
bạn mua cổ phiếu này gần với mức đáy của nó, sau đó bán đi khi nó gần lên đến mức
đỉnh, rồi lại tiếp tục mua khi giá gần chạm đáy và lại bán đi khi giá lên đến đỉnh,
cứ liên tục như vậy trong 20 năm? Như vậy bạn sẽ lãi gấp ba hoặc bốn lần, thu về
lợi nhuận khoảng 25%/năm. Nếu bạn làm được như vậy, bạn đúng là một nhà đầu tư
giá trị, mua cổ phiếu khi nó rớt giá.
Delta thật sự là hãng
hàng không mạnh và dẫn đầu trong lĩnh vực hết sức quan trọng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nỗi lo sợ về nền kinh tế và những yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến lợi
nhuận của ngành hàng không như tỷ lệ lãi suất và giá dầu sẽ làm cho giá cổ phiếu
Delta (và của các hãng hàng không khác) tăng hoặc giảm thường xuyên. Những biến
động giá này sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư giá trị mua cổ phiếu vì họ nhận
ra rằng cổ phiếu Delta sẽ không giảm mãi và hãng hàng không này sẽ tiếp tục làm
ăn có lãi và thu lợi nhuận trong dài hạn mặc dù có sự giảm giá trong ngắn hạn.
Vụ tấn công vào Trung tâm
Thương mại Thế giới ngày 11/9/2001 đã khiến các hãng hàng không gặp nhiều khó
khăn, trong đó có cả Delta. Giá cổ phiếu Delta giảm tới 50%. Tuy nhiên, khả
năng giá cổ phiếu Delta giảm một nửa trong dài hạn sẽ không xảy ra. Trong ngắn
hạn, các mức giá thấp hơn thường được điều chỉnh, tuy nhiên chúng cũng tạo ra
cơ hội cho các nhà đầu tư giá trị mua cổ phiếu đầu tư trong dài hạn. Và, trên
thực tế, ngày 1/10, giá cổ phiếu Delta đã phục hồi hơn một nửa so với mức tháng
9.
Bên cạnh sự kiện 11/9,
chu kỳ “giao dịch”của Delta đơn giản là kết quả của chu kỳ suy thóai và hưng thịnh
thông thường của một hãng hàng không. Các công ty khác cũng có những chu kỳ
tương tự như vậy. Nó phản ánh chu kỳ kinh doanh và là một phần của những ngành
có triển vọng tăng trưởng trong dài hạn như ngành dược phẩm, bất động sản và
xăng dầu.
Nhà kinh tế học nổi tiếng
Benjamin Graham, cha đẻ của phương thức đầu tư giá trị, cho rằng việc liên tiếp
đánh giá một cổ phiếu quá hay dưới giá trị thông thường là do “sự tính toán nhầm
và thái độ quá lạc quan hay bi quan khi định giá cổ phiếu”. Các chu kỳ lạc quan
và bi quan này tạo ra cơ hội đặc biệt cho những ai thích khái niệm đầu tư giá
trị nhưng lại không có đủ kiên nhẫn để chờ đợi phần thưởng thật sự chỉ có trong
dài hạn. Bạn có thể coi kiểu đầu tư này là “giao dịch giá trị”, mặc dù việc
giao dịch chỉ được hiểu là mua và bán một công ty dựa trên chênh lệch giá kỳ vọng.
QUY TRÌNH ĐẦU TƯ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ GIÁ TRỊ
Lựa chọn cổ phiếu là bước
quan trọng nhất trong quy trình đầu tư giá trị. Chiến lược lựa chọn cổ phiếu:
Cuộc kiếm tìm cổ phiếu giá rẻ
Những tay săn cổ phiếu
giá rẻ, những người luôn lùng sục các mặt hàng hạ giá luôn tìm kiếm hàng giá rẻ,
nhưng mục đích không phải vì giá cả. Họ tìm kiếm những mặt hàng có giá trị nội
tại, có ích và được định giá thấp hơn so với những mặt hàng tương tự ở gian
hàng khác. Khi lựa chọn cổ phiếu, mục tiêu của các nhà đầu tư giá trị luôn giống
nhau. Họ tìm kiếm những cổ phiếu có tỷ số P/E thấp nhưng mục tiêu không phải là
tỷ số P/E. Tỷ số P/E phải thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng của chỉ số EPS (tỷ lệ lợi
nhuận trên mỗi cổ phiếu) dự kiến trong tương lai. Cổ phiếu giá trị tốt nhất là
những cổ phiếu tăng trưởng trong tương lai tốt nhất trong khi có tỷ số P/E thấp
nhất. Và sẽ tốt hơn nữa nếu tỷ số P/E hiện tại thấp hơn so với tỷ số P/E của cổ
phiếu đó trong quá khứ và tỷ số P/E của những cổ phiếu khác cùng nhóm ngành.
Tóm lại, một nguyên tắc bất thành văn là tỷ số P/E phải thấp hơn tốc độ tăng
trưởng doanh thu trong tương lai.
Nhận diện cổ phiếu giá trị
Dưới đây là những dấu hiệu
quan trọng để nhận biết cổ phiếu giá trị. Chúng được liệt kê theo mức độ quan
trọng giảm dần.
•
Tỷ
số P/E thấp: Xin nhắc lại lần nữa, tỷ số P/E phải thấp tương đối so với tỷ lệ
doanh thu dự kiến trong tương lai. Tỷ lệ P/E thấp là một nửa định nghĩa của cổ
phiếu có giá trị;
•
Tỷ
lệ tăng trưởng lợi nhuận dự kiến trong tương lai cao: Đây là nửa còn lại của định
nghĩa cổ phiếu giá trị. Đối với một loại cổ phiếu, tốc độ tăng trưởng doanh thu
trên một cổ phiếu dự kiến trong tương lai (từ ba đến năm năm) nên cao hơn tỷ số P/E;
•
Tỷ lệ tăng trưởng lợi
nhuận trong quá khứ cao: Doanh thu trong tương lai là cái chúng ta mua, còn
doanh thu trong quá khứ đem lại cho chúng ta sự tin tưởng vào doanh thu trong
tương lai. Doanh thu trong quá khứ là thước đo đáng tin cậy nhất để đánh giá khả
năng tăng doanh thu của công ty, bởi con số đó là thực tế. Nhưng để đánh giá
chính xác, bạn phải dựa vào điều kiện tốc độ tăng trưởng doanh thu trong quá khứ
phải cao hơn tỷ số P/E. Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận bằng tỷ số P/E hoặc thấp
hơn (miễn là lợi nhuận tăng lên nhanh chóng) đều có thể được chấp nhận;
•
Tỷ
số P/E thấp so với tỷ số P/E của các công ty khác cùng ngành hay của các đối thủ
cạnh tranh lớn: Tỷ số P/E có xu hướng tiến tới tỷ số P/E trung bình ngành. Cổ
phiếu có tỷ số P/E thấp hơn các công ty cùng ngành sẽ có cơ hội tăng trưởng;
•
Tỷ
số P/E tương đối thấp: Tỷ số P/E thấp so với các tỷ số P/E trong quá khứ của
công ty sẽ là điều tuyệt vời nhưng không thực sự cần thiết. Tỷ số P/E phải thấp
so với tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận;
•
Cổ
phiếu đang được bán thấp hơn so với xu hướng giá cả trong dài hạn: Đây là bằng
chứng chứng minh cổ phiếu đang được bán ở mức tỷ số P/E thấp so với quá khứ.
Nhưng, xin nhắc lại lần nữa, tỷ số P/E phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng doanh thu;
•
Cổ
phiếu đang được bán thấp hơn trị giá trung bình chuyển vận trong dài hạn (200
ngày): Điều này càng khẳng định rằng cổ phiếu đang được bán ở mức tỷ số P/E thấp
hơn so với mức trong quá khứ;
•
Giao
dịch nội bộ: Số lượng người trong nội bộ công ty mua cổ phiếu càng nhiều chứng
tỏ những người điều hành cũng nhìn thấy tiềm năng tăng trưởng của công ty như
chúng ta;
•
Giá
thấp hơn giá trị sổ sách và doanh thu: Đối với cổ phiếu giá trị, giá rẻ so với
giá trị sổ sách và doanh thu sẽ rẻ tương đối so với thị trường. Như vậy, cổ phiếu
đó có giá trị tương đối hấp dẫn.
Đánh giá danh sách cổ phiếu giá trị thu gọn
Khi bạn đã tìm được một
danh sách cổ phiếu giá trị, bạn sẽ cần thu gọn danh sách này để có được bốn hay
năm cổ phiếu có giá trị nhất. Hãy loại bỏ những cổ phiếu kém hấp dẫn. Bạn có
thể sử dụng những câu hỏi
trong Bảng 5.1 để sắp xếp lại danh sách cổ phiếu của mình. Những cổ phiếu ở đầu
danh sách là những cổ phiếu tiềm năng nhất.
Sau phép đánh giá
này, nếu danh sách vẫn còn quá nhiều cổ phiếu, bạn hãy đánh giá tiếp bằng cách
sử dụng mối tương quan giữa tỷ số P/E và tăng trưởng. Để tìm được cổ phiếu thể
hiện tiềm năng tăng trưởng tốt nhất, bạn nên nghiên cứu biểu đồ của cổ phiếu đó
và các chỉ số kỹ thuật.
Chiến
lược thời điểm mua vào: Tìm kiếm dấu hiệu hồi phục
Chiến lược thời điểm mua
vào đặc biệt quan trọng trong đầu tư giá trị, bởi bạn cần đảm bảo chắc chắn rằng
một cổ phiếu giá trị không còn xu hướng giảm giá nữa. Theo định nghĩa, cổ phiếu
giá trị đã trải qua xu hướng giảm giá dài hạn hoặc sẽ đạt tới mức giá mà tại
đó, giá trị tương lai của cổ phiếu sẽ hấp dẫn nhà đầu tư. Vấn đề ở đây là mua cổ
phiếu có giá trị vào thời điểm xu hướng giảm giá kéo dài kết thúc. Dấu hiệu đi
lên tích cực là cách duy nhất để khẳng định rằng cổ phiếu có xu hướng tăng nhiều
hơn là giảm.
Ngày 9/10/2001, đường trị
giá trung bình 50 ngày chuyển vận nằm trên đường trị giá trung bình 200 ngày
chuyển vận biểu hiện dấu hiệu mua vào của cổ phiếu Quỹ tương hỗ Washington (WM)
giữa năm 2000. Tuy nhiên nếu bạn đang tìm kiếm một cổ phiếu giá trị để mua vào
ngày hôm đó, bạn nên theo đuổi WM vì nó vừa mới cắt và nằm trên đường trị giá
trung bình 200 ngày chuyển vận.
Có một số chỉ số đơn giản
giúp bạn đánh giá xu hướng giảm giá đã kết thúc: đường trung bình, đường phá vỡ
đường MACD dài hạn hay sự phá vỡ mức kháng cự trong dài hạn.
Nếu sử dụng đường trung
bình, bạn phải vẽ đồ thị đường trung bình 50 ngày và đường trung bình 200 ngày.
Hai đường này cắt nhau ở phía trên, như biểu đồ 5.5, là thể hiện xu hướng ngắn
hạn sẽ thay đổi.
Đường MACD dài hạn là một
chiến lược đánh giá thời điểm mua vào của cổ phiếu giá trị khác. Biểu đồ 5.6 vẽ
đường MACD theo tháng của công ty Papa John’s International (PZZA).
Một dấu hiệu khác để mua
cổ phiếu là khi cổ phiếu phá vỡ mức kháng cự trong dài hạn, như biểu đồ 5.7.
Chiến
lược thời điểm bán ra: Giúp bạn không mắc sai lầm và đạt được thành công
Trong đầu tư giá trị, chiến
lược thời điểm bán ra rất quan trọng và độc đáo. Bạn cần một chiến lược giúp
mình bán một cổ phiếu nhanh chóng nếu giá vẫn tiếp tục giảm trong dài hạn. Bạn
cũng cần một chiến lược giúp mình rút lui khỏi thị trường khi thành công. Khi
đó, cổ phiếu không còn là cổ phiếu giá trị nữa vì tỷ số P/E đã vượt xa tốc độ
tăng trưởng lợi nhuận.
Khi cổ phiếu có tỷ số P/E
vượt xa tốc độ tăng trưởng, có nghĩa bạn đã lựa chọn đúng. Là nhà đầu tư giá trị,
bạn sẽ muốn bán ra tại thời điểm này vì mối tương quan giữa tỷ số P/E và tốc độ
tăng trưởng không còn phù hợp với mục tiêu của bạn nữa. Điều này không có nghĩa
là bạn đã đầu tư sai lầm. Cổ phiếu đó không còn đem lại lợi nhuận như bạn mong
muốn. Chính vì vậy, bạn nên bán cổ phiếu đó để thu lợi nhuận và tìm kiếm một cổ
phiếu khác có những đặc điểm giá trị tốt hơn. Tuy nhiên, bạn phải thừa nhận rằng
mình đã sai lầm trong đánh giá đầu tiên. Cho dù bạn nghiên cứu sâu và phân tích
cẩn thận một cổ phiếu đến đâu chăng nữa, một lúc nào đó, bạn vẫn có thể phạm
sai lầm và cổ phiếu thay vì tăng giá lại giảm giá. Một cổ phiếu tưởng như cổ
phiếu giá trị hóa ra lại là cổ phiếu suy giảm giá trị bởi dòng sản phẩm hay triển
vọng kinh doanh của công ty suy giảm. Trong những trường hợp như vậy, tỷ số P/E
được duy trì bởi công ty sẽ không tăng trưởng nhanh như dự đoán. Vì vậy, bạn rất
cần một chiến lược bán ra để thoát khỏi sự đầu tư kém hiệu quả.
Chiến lược bán ra đơn giản
nhất là bạn sử dụng dấu hiệu ngược lại của các chỉ số mà bạn đã sử dụng để mua
cổ phiếu. Ví dụ, nếu bạn đã sử dụng MACD tính theo tháng với những dấu hiệu
tích cực để mua một cổ phiếu, bạn nên bán ra cổ phiếu đó khi đường MACD tính
theo tuần thể hiện những dấu hiệu tiêu cực. Nếu bạn mua một cổ phiếu khi đường
trung bình 50 ngày cắt đường trung bình 200 ngày lên phía trên, bạn có thể bán
ra khi đường trung bình 50 ngày cắt đường trung bình 200 ngày xuống phía dưới.
Nếu bạn sử dụng đường kháng cự trong dài hạn, bạn có thể bán khi cổ phiếu rớt
giá quay trở lại mức kháng cự.
Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư giá trị
Dưới đây là những chiến lược quản lý danh mục đầu tư cổ
phiếu giá trị quan trọng;
• Đa dạng hóa cổ phiếu và ngành đầu tư:
Vì khối lượng thời gian bỏ ra tương đối ít nên nhà đầu tư giá trị hoàn toàn có
khả năng duy trì một danh mục đầu tư gồm 10-15 cổ phiếu của nhiều ngành công
nghiệp khác nhau;
•
Quản
lý thường xuyên danh mục đầu tư: Cũng giống như danh mục đầu tư tăng trưởng,
quá trình thiết lập danh mục đầu tư giá trị đòi hỏi nhiều thời gian và công sức,
nhưng việc quản lý hàng ngày lại cần ít thời gian hơn. Khoảng thời gian nắm giữ
cổ phiếu giá trị thông thường là dài – nhiều tháng đến nhiều năm – nhưng việc
quản lý từng cổ phiếu chỉ cần tuần một lần. Nếu một cổ phiếu giá trị đi theo
đúng chiều hướng mà chúng ta mong đợi, nó sẽ tăng đến một điểm mà tại đó nó
không còn là cổ phiếu giá trị nữa. Khi đó, bạn nên tiếp tục giám sát sự biến động
giá trị của từng cổ phiếu và loại bỏ những cổ phiếu không còn là cổ phiếu giá trị.
Bạn nên xem xét tổng thể
danh mục đầu tư cổ phiếu của mình ít nhất ba tháng một lần, sau khi công bố
doanh thu. Hãy cảnh giác với những biến động lớn của giá cổ phiếu. Nếu có biến
động lớn, chẳng hạn bạn đã mua một cổ phiếu với giá 20 đô la và sau tám tuần
giá của nó là 40 đô la (biến động theo hướng tích cực), bạn cần xem xét lại cổ
phiếu này để chắc chắn rằng nó vẫn còn những đặc điểm của cổ phiếu giá trị. Nếu
giá cổ phiếu tăng mạnh sau khi công ty tuyên bố doanh thu dự đoán sẽ vượt quá mức
dự đoán hiện tại, thì cổ phiếu này vẫn là một cổ phiếu giá trị tốt. Nguyên tắc
là: Nếu bạn mua một cổ phiếu với mức giá hiện tại mà không tính đến những đặc
điểm giá trị của nó, hãy xem xét có nên bán nó đi hay không;
•
Luôn
đầu tư toàn bộ nếu có thể: Nhìn chung, các nhà đầu tư giá trị luôn cố gắng đầu
tư toàn bộ. Là nhà đầu tư giá trị, bạn đang mua những cổ phiếu mà bạn tin rằng
ít rủi ro, do đó, không có lý do gì để bạn duy trì một lượng tiền mặt lớn cả.
Mùa xuân năm 2000, các nhà đầu tư giá trị tập trung vào những cổ phiếu có giá
trị vốn hoá lớn nhận thấy sự khan hiếm của những cổ phiếu giá trị có mức giá hấp
dẫn, bởi những cổ phiếu có giá trị vốn hoá lớn đã vượt quá giá trị vào cuối thời
kỳ thị trường đầu cơ giá lên hoạt động. Đó là lý do chính đáng để bạn tăng lượng
tiền mặt hoặc chuyển sang những cổ phiếu có giá trị vốn hoá nhỏ không được ưa
chuộng vào thời điểm đó.
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: QUỸ TƯƠNG HỖ WASHINGTON
Mục đích của nghiên cứu
này là xác định những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn bị định giá dưới
giá trị để minh họa cho quá trình lựa chọn cổ phiếu giá trị.
Quỹ tương hỗ
Washington: cổ phiếu giá trị có giá trị vốn hóa thị trường lớn
Ngày 2/11/2001, cổ phiếu
của Quỹ tương hỗ Washington (WM) là một trong những cổ phiếu có giá trị vốn hóa
thị trường lớn bị định giá dưới giá trị. Giá trị vốn hóa thị trường của quỹ này
là khoảng 24 tỷ đô la. Cổ phiếu WM có những đặc điểm cơ bản của một cổ phiếu
giá trị:
• Tỷ số P/E bằng 8, dựa trên doanh thu của năm tài khóa 2001;
• Tỷ lệ tăng trưởng của cổ phiếu ba năm trước là 32%;
• Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu năm năm trước là 43%;
• Tỷ lệ tăng trưởng EPS dự đoán trong năm năm là 12,6%.
Tỷ lệ tăng trưởng EPS dự
đoán được xác định dựa trên việc công ty không tiến hành mua thêm bất kỳ tài sản
nào vì một số nhà phân tích dự đoán doanh thu dựa trên các khoản mua lại trong
tương lai. Nếu WM tiếp tục phương thức mua lại mạnh, tăng trưởng doanh thu có thể
cao hơn dự đoán.
Một số thông tin về WM
Bước đầu tiên trong quá
trình đánh giá là tìm hiểu công ty. WM là một trong những quỹ tiết kiệm lớn nhất
nước và là quỹ cho vay thế chấp lớn thứ hai với gần 2.000 chi nhánh trên toàn
quốc. Dịch vụ tài chính của quỹ cung cấp các khoản vay tài chính, khoản tiết kiệm
hàng năm, các sản phẩm bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, cũng như nhà tư vấn đầu tư
và toàn bộ những dịch vụ môi giới cổ phiếu.
Cuối những năm 1990, công ty mở rộng mạnh mẽ, giành được
nhiều hãng khác trong đó có
H. F. Ahmason và công ty tài chính Great
Western. Năm 2001, WM mua lại công ty Bank United (của Texas), mảng kinh doanh
thế chấp của công ty tài chính PNC và tập đoàn Fleet Mortgage; WM cũng tuyên bố
kế hoạch mua lại hãng Dime Bancorp (DME). Những vụ mua lại này đã khiến WM trở
thành công ty dịch vụ tài chính tầm cỡ quốc gia với mạng lưới kinh doanh trên
43 bang.
Nghiên cứu biểu đồ
Nhìn vào biểu đồ 5.8 của
WM, chúng ta thấy sự tăng giá dần dần từ mức 15 đô la lên 40 đô la trong vòng
hai năm. Sự giảm giá vào cuối năm 2001 là do ảnh hưởng của sự kiện ngày 11/9 và
mối lo ngại về chất lượng tài sản của những người cho vay. Nói cách khác, những
người cho vay cho vay những khoản chứa rủi ro hạn độ tín dụng rất dễ bị vỡ nợ
trong thời kỳ kinh tế khó khăn.
Danh mục đánh giá
cổ phiếu giá trị
Sau khi đạt tới mức giá đỉnh
điểm vào tháng 8/2001, WM đã mất tới 33% giá trị chỉ trong ba tháng tiếp theo,
khiến cổ phiếu càng trở nên hấp dẫn hơn để đầu tư. Nghiên cứu cổ phiếu dựa vào
danh mục cần kiểm tra ở biểu đồ 5.1, cổ phiếu WM đã ở thời điểm mua vào và nằm
trong danh mục những cổ phiếu giá trị điển hình, cổ phiếu này chỉ có một vài
nhược điểm nhỏ.
•
Tỷ
số P/E so với tốc độ tăng trưởng EPS: Tốc độ tăng trưởng EPS năm năm qua (bằng
43%) gấp năm lần so với tỷ số P/E (bằng 8) trong năm tài khóa 2001;
•
Tỷ
số P/E so với ngành và S&P 500: Tỷ số P/E của WM thấp hơn so với ngành (bằng
12,3) và S&P 500 (bằng 22,5);
•
Giá
cổ phiếu so với xu hướng dài hạn: WM được giao dịch tại mức thấp hơn 25% so với
xu hướng dài hạn của cổ phiếu;
•
Sự
thay đổi lớn của doanh thu: WM có sự thay đổi lớn về doanh thu mang tính tích cực
trong ba quý trước;
•
Dự
đoán của các nhà phận tích: Tháng 9/2001 các nhà phân tích ước tính mức giá cao
hơn vào năm 2001 (3,57 đô la) và năm 2002 (3,96 đô la);
•
Số
lượng các nhà phân tích quan tâm tới cổ phiếu: Có 16 nhà phân tích đưa ra dự
đoán năm 2001 và 17 người dự đoán năm 2002;
•
Sự
gợi ý mua/bán/giữ: Có 12 lời khuyên nên mua, năm lời khuyên nên giữ và không có lời khuyên nào nên bán;
•
Tin
tức: Ngày 1/1/2001, WM đệ trình hồ sơ đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và Hối
đoái để bán một triệu chứng chỉ nợ. Công ty sẽ sử dụng khoản tiền thu được để
tiến hành sáp nhập. Động thái này được cho là dấu hiệu tích cực bởi nó ám chỉ
hoạt động sáp nhập mạnh mẽ của WM vẫn được tiếp tục;
•
Giao
dịch nội bộ: Tháng 7/2001, một nhân viên đã bán 183.186 cổ phiếu nhưng vẫn còn lại gần 250.000 cổ phiếu;
•
Nhóm
ngành: Nhóm ngành này đang hoạt động suy giảm do những lo ngại về chất lượng
tài sản của người cho vay, đây là một dấu hiệu tiêu cực;
•
Xu
hướng tăng giá: Vào thời điểm đánh giá, cổ phiếu vẫn nằm trong xu hướng giảm
giá, nên bạn phải thận trọng và chờ đợi một dấu hiệu đảo chiều rõ ràng trước
khi quyết định mua vào.
Kết luận: Mô hình mua lại của WM giúp tăng thêm giá trị
của công ty
Giả sử các chỉ số cơ bản
của công ty rất cao và công ty vẫn giữ mô hình sáp nhập thì WM sẽ trở thành cổ
phiếu giá trị siêu hạng vào tháng 1/2001. Tỷ số P/E là 8, khá thấp so với tốc độ
tăng trưởng doanh thu trong quá khứ của công ty (43%) và thậm chí nếu so với tốc
độ tăng trưởng doanh thu dự kiến năm năm tới là 13%, cổ phiếu này vẫn rất hấp dẫn.
WM thậm chí còn hấp dẫn hơn nữa, nếu tốc độ tăng trưởng doanh thu dự kiến đó chỉ
là tốc độ tăng trưởng nội tại của công ty mà không tính đến các vụ sáp nhập có
thể xảy ra. Chính sách sáp nhập liên tiếp trong quá khứ và các vụ sáp nhập mới
sẽ khiến tốc độ tăng trưởng tăng cao.
QUỸ CỔ PHIẾU GIÁ TRỊ
Không xây dựng và quản lý
danh mục cổ phiếu như thông thường, rất nhiều nhà đầu tư giá trị lựa chọn đầu
tư vào các quỹ hỗ trợ hay quỹ giao dịch trao đổi (ETFs) theo định hướng đầu tư
giá trị.
Có một số quỹ ETFs hướng
vào những nhà đầu tư giá trị. Năm 2001, những quỹ sau đây có sẵn trên iShares
và street TRACKS:
iShares S&P 500 (IVE)
iShares S&P MidCap 400 (IJJ)
iShares
S&P SmallCap 600 (IJS)
iShares Russell 1000
Value Index Ticker (IWD) iShares Russell 2000 (IWN)
iShares
Russell 3000 (IWW)
streerTRACKS DJ US Large
Cap Value (EVL) streerTRACKS DJ US Small Cap Value (DSL) Mẹo lựa chọn quỹ giá
trị
Dưới đây
là một số mẹo cần thiết khi lựa chọn quỹ giá trị:
1. Mục đích của quỹ và chiến lược đầu tư
là gì? Hãy tìm những quỹ có cổ phiếu được định giá hấp dẫn hay những công ty bị
định giá dưới giá trị thực tiềm tàng khả năng tạo ra lợi nhuận lớn. Nếu giá trị
vốn hóa thị trường quan trọng với bạn, hãy lưu ý giá trị vốn hóa của các quỹ bạn
định đầu tư vào;
2. Có những nhân tố rủi ro nào? Một quỹ
đầu tư giá trị có mức độ rủi ro thấp, nhưng các bản cáo bạch thường không nói đến
điều đó;
3. Hoạt động của quỹ trong quá khứ như
thế nào? Hãy chú ý đến hoạt động của quỹ trong một, ba hay năm năm gần đây.
Thông tin về hoạt động trong quá khứ không đảm bảo hoạt động trong tương lai, nhưng nó là những thông tin quan trọng.
Nếu thị trường không chuộng đầu tư giá trị trong những năm vừa qua thì kết quả
của quỹ đầu tư giá trị có thể dưới giá trị danh nghĩa, nhưng kết quả đó không ảnh
hưởng tới quỹ;
4. Ai là người quản lý quỹ? Lưu ý số năm
kinh nghiệm của người quản lý. Nếu họ quản lý cả những quỹ khác, hãy xem xét hoạt
động của cả những quỹ đó;
5. Phân loại đánh giá quỹ? Quỹ được
Morningstar xếp loại từ 1-5 sao, nhằm đánh giá hoạt động của quỹ trong quá khứ
sau khi đã điều chỉnh rủi ro. Q được 4-5 sao là quỹ xuất sắc, nhưng hãy nhớ rằng phương pháp đánh giá này chỉ dựa vào
quá khứ mà không chỉ ra được tương lai và không được áp dụng với tất cả các quỹ;
6. Mười cổ đông lớn nhất là ai? Hầu hết
các quỹ đều liệt kê năm đến mười cổ đông lớn nhất của quỹ. Một số quỹ còn liệt
kê những ngành mà họ đầu tư vào. Hãy kiểm tra xem liệu công ty hay ngành đó có
những đặc điểm bị định giá dưới giá trị thực mà bạn đang tìm kiếm không;
7. Đa dạng hóa đầu tư vào các quỹ? Nếu bạn
đầu tư vào các quỹ, hãy đa dạng hóa danh mục của mình bằng cách tìm kiếm những
quỹ hoạt động ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, những kiểu quỹ khác nhau, những
quỹ có giá trị vốn hóa khác nhau, hay những quỹ kết hợp từ quỹ trong nước và quỹ
toàn cầu.
Các nguồn thông
tin trực tuyến về cổ phiếu giá trị
Nguồn thông tin trực tuyến
về cổ phiếu giá trị rất đa dạng. Bạn có thể sử dụng những từ khóa dưới đây với
bất cứ công cụ tìm kiếm nào: cổ phiếu giá rẻ, Benjamin Graham, cổ phiếu tăng
trưởng với giá khuyến mãi, GARP, cổ phiếu có tỷ số P/E thấp, cổ phiếu bị định
giá thấp hơn giá trị thực, đầu tư giá trị, cổ phiếu giá trị, Warren Buffett,
v.v…
LỜI KHUYÊN ĐỂ ĐẦU TƯ GIÁ TRỊ THÀNH CÔNG
Đầu tư giá trị đem lại những
khoản lợi nhuận lớn nhưng đòi hỏi lòng kiên trì. Nếu bạn đã chọn được một cổ
phiếu giá trị tốt, bạn nên đầu tư trong thời gian dài và đừng lo lắng về biến động
giá hàng ngày của nó. Sau đây là một số lời khuyên để trở thành nhà đầu tư giá
trị thành công.
1. Hãy tách cảm xúc ra khỏi quá trình đầu
tư: Đây là quy tắc số một cho bất cứ nhà đầu tư nào. Hãy đánh giá cổ phiếu theo
đúng bản chất của nó;
2. Hãy cảnh giác với những đợt biến động
giá lớn: Nếu một cổ phiếu có biến động giá lớn, hãy kiểm tra xem liệu cổ phiếu
đó có còn là cổ phiếu giá trị không? Hãy ghi nhớ: Nếu không muốn mua cổ phiếu
đó ở mức giá hiện tại khi so sánh với những đặc điểm giá trị của
nó, bạn nên xem
xét việc bán ra;
3. Đừng lo sợ khi bị lỗ: Tất cả các nhà
đầu tư đều có thể sai lầm, kể cả những nhà đầu tư lớn, vì vậy đừng lo sợ khi bị
lỗ. Hãy sử dụng các tín hiệu mua vào/bán ra để thoát khỏi cổ phiếu đó;
4. Đừng để con số tuyệt đối ám ảnh: Đừng
mua cổ phiếu đó chỉ vì nó có tỷ số P/E thấp. Có thể một cổ phiếu có tỷ số P/E
là 5 sẽ luôn luôn có tỷ số P/E là 5 và tất cả các công ty cùng ngành khác cũng
có P/E là 5. Điều mà bạn đang tìm kiếm là mối tương quan giữa tỷ số P/E với số
liệu tốc độ tăng trưởng doanh thu trong quá khứ và dự kiến trong tương lai. Nếu
một cổ phiếu có P/E là 5 không tăng trưởng hơn 5%/năm thì nó không phải là cổ
phiếu giá trị. Đôi khi cổ phiếu có tỷ số P/E là 5 đã được định giá khá chính xác;
5. Tìm kiếm những nhóm ngành giá trị:
Đôi khi, toàn bộ một ngành có thể bị đánh giá thấp hơn giá trị thực và đó là cơ
hội săn tìm những cổ phiếu giá trị. Để tìm được ngành nghề hay lĩnh vực bị đánh
giá thấp, hãy chú ý tới các bản tin tài chính. Hãy kiểm tra những ngành và lĩnh vực hoạt động tốt nhất và kém nhất thông qua các danh sách trên một số trang web;
6. Khi bạn tìm thấy ngành nghề hay lĩnh
vực bị đánh giá thấp, hãy quan sát biểu đồ để xem ngành này đang ở vị trí nào
trong xu hướng: Kiểm tra tỷ số P/E trung bình của ngành. Sau đó, tìm những nhóm
có cổ phiếu bị định giá thấp. Luôn ghi nhớ rằng khi toàn bộ ngành suy giảm, một
cổ phiếu giá trị không nhất thiết phải thấp so với những cổ phiếu khác trong
ngành của nó;
7. Tìm kiếm những công ty đang tăng lợi
nhuận: Lợi nhuận tăng là dấu hiệu cho thấy công ty đang hoàn thiện hoạt động, đặc
biệt khi cổ phiếu của công ty vừa giảm giá do sự cạnh tranh ngành khắc nghiệt.
Bạn sẽ tìm thấy thông tin về lợi nhuận trong báo cáo 10K hay 10Q của công ty;
8. Tìm kiếm cổ phiếu giá trị trong những
ngành đang nổi lên: Những ngành đang nổi lên là những ngành có lợi thế về công
nghệ như công nghệ sinh học hay mạng viễn thông không dây. Các công ty trong những
ngành như vậy có thể bị định giá thấp nếu có một sản phẩm gây thất vọng hay gây
cản trở. Chẳng hạn, nếu một công ty dược phẩm có một loại thuốc không được FDA
cấp giấy phép lưu hành, cổ phiếu của công ty đó chắc chắn sẽ bị tác động mạnh
và có thể bị định giá dưới giá trị. Nếu có cơ hội hồi phục, như dược phẩm được
FDA cấp phép, cổ phiếu của công ty này có thể là một cổ phiếu giá trị so với
nhóm. Để tìm cổ phiếu trong một ngành đang nổi lên, bạn hãy tìm kiếm những công ty có giá trị hiện tại cao
nhất so với những gì công ty đạt được trong quá khứ.
CHƯƠNG 6. Chiến lược đầu tư theo đà
tăng trưởng
Trong một năm, hầu hết
các cổ phiếu đều có bước tăng trưởng mang tính quyết định. Theo triết lý đầu tư
theo đà tăng trưởng, xu hướng tăng trưởng này tuân theo tỷ lệ 80-20, có nghĩa
là: Những cổ phiếu này tăng trưởng 80% trong 20% thời gian. Luôn có những cổ
phiếu tăng trưởng siêu mạnh trong một hoặc hai năm. Tuy nhiên, hầu hết các cổ
phiếu đều có giai đoạn bùng nổ tăng trưởng – hay còn gọi là đà tăng trưởng. Tuy
khoảng thời gian này không kéo dài nhưng các nhà đầu tư vẫn có thể thu lợi vì
các cổ phiếu khác nhau thường tăng trưởng trong những khoảng thời gian khác
nhau.
Điểm mấu chốt trong chiến
lược đầu tư theo đà tăng trưởng đó là tìm ra và đầu tư vào những cổ phiếu đang
tăng trưởng. Lý tưởng nhất là khi các nhà đầu tư theo chiến lược này bắt kịp những
đợt sóng lớn nhất, lướt trong khoảng thời gian “hoàn hảo” và rút lui vào thời
điểm “hoàn hảo” – thời điểm ngay trước khi đà tăng trưởng đảo chiều hoặc khả
thi hơn là, ngay sau khi đà tăng trưởng này đảo chiều. Dĩ nhiên, không thể tìm
ra khoảng thời gian “hoàn hảo”, nhưng nhảy vào cuộc khi bắt đầu đà tăng trưởng
và rút lui trước khi đà tăng trưởng dừng lại hoặc ngay sau khi nó đảo chiều là
mục tiêu của các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng.
Đầu tư theo đà tăng trưởng
chứa rất nhiều rủi ro, bởi các cổ phiếu đang có đà tăng trưởng thường đã đi được
chặng đường dài nhất và có tốc độ tăng nhanh nhất. Chúng sẽ đạt đến kỷ lục mới
và những điều chỉnh tất yếu có thể đến rất nhanh và gây ra nhiều hậu quả khôn
lường. Tuy vậy, nếu là nhà đầu tư theo đà tăng trưởng, bạn không phải lo sợ khi
mua một cổ phiếu tại mức giá kỷ lục mới bởi như nhận xét của William O’neil, chủ
bút tờ Investor’s Bussiness Daily và cũng là nhà đầu tư có kinh nghiệm hàng đầu
trong chiến lược này, một cổ phiếu phải đạt kỷ lục mới để có thể tiến xa hơn. Bạn
chỉ cần nhớ rằng không phải mọi vụ đầu tư đều thành công và điều quan trọng đối
với các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng là cần nhanh chóng nhận ra thua lỗ.
BIỂU ĐỒ PQ CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ THEO ĐÀ TĂNG TRƯỞNG
Các nhà đầu tư bị cuốn
hút vào chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng bởi họ hy vọng kiếm được những
khoản lợi nhuận lớn và nhanh chóng (điểm 9 cho lợi nhuận kỳ vọng và điểm 2 cho
tính kiên nhẫn trên biểu đồ 6.1). Không một phương pháp đầu tư nào có khả năng
đem lại lợi nhuận lớn và nhanh như phương pháp đầu tư theo đà tăng trưởng. Theo
các nhà đầu tư của phong cách này, ai biết luân chuyển cổ phiếu trong một năm,
nhằm thu lợi nhuận từ càng nhiều nguồn càng tốt sẽ thu được khoản lợi nhuận lớn
bất thường
Tuy nhiên, lợi nhuận lớn
bao giờ cũng đi kèm với rủi ro lớn, do đó chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng
là một trong những chiến lược có độ rủi ro cao (9 điểm cho khả năng chịu rủi ro
và khả năng chịu biến động trên biểu đồ PQ). Các cổ phiếu thường xuyên có đà
tăng trưởng luôn đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ cho nhà đầu tư và bất kỳ
dấu hiệu nào cho thấy mức độ tăng trưởng lợi nhuận dừng lại cũng sẽ khiến đà
tăng trưởng của các cổ phiếu này ngừng lại. Kết quả là, các cổ phiếu đang có đà
tăng trưởng có thể phải hứng chịu những đợt sụt giảm mạnh.
Phẩm chất quan trọng nhất
của nhà đầu tư theo đà tăng trưởng là yêu cầu về tính kỷ luật, nhân tố được chấm
điểm 10 trên biểu đồ PQ. Vì phải mua vào và bán ra nhanh, nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng cần tuân theo đúng nguyên tắc để đưa ra quyết định đúng đắn khi dấu
hiệu tham gia và dấu hiệu rút lui xuất hiện. Học cách nhận ra thua lỗ nhanh
chóng giúp bạn tránh khỏi những khoản thua lỗ lớn hơn trong tương lai. Trong
môi trường ngắn hạn và biến động nhanh của các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng,
bất kỳ ai lưỡng lự hoặc cân nhắc quá kỹ cũng có thể làm suy giảm lợi nhuận.
Đầu tư theo đà tăng trưởng
đòi hỏi cam kết chặt chẽ về thời gian hơn bất kỳ một phong cách đầu tư nào
khác. Khi xây dựng một danh mục đầu tư theo đà tăng trưởng, bạn phải khảo sát
hàng chục cổ phiếu để tìm ra cổ phiếu có đà tăng trưởng tốt nhất. Bạn cũng phải
luôn sẵn sàng hành động để tận hưởng chặng đường tăng trưởng này càng lâu càng
tốt. Tuy nhiên, với một danh mục cổ phiếu có đà tăng trưởng, bạn cũng chưa thể
hoàn toàn an tâm được. Mỗi ngày, bạn đều phải quan sát biểu đồ để kịp thời phát
hiện biến động của cổ phiếu và rút lui ngay khi đà tăng trưởng kết thúc. Bạn
cũng nên xây dựng một danh mục cổ phiếu tiềm năng để khi xuất hiện một cổ phiếu
có đà tăng trưởng tốt hơn so với cổ phiếu đang nắm giữ, bạn có thể chuyển sang
cổ phiếu đó nhanh chóng. Điều đó có nghĩa là bạn phải liên tục so sánh giữa các
nhóm phiếu và tổ chức kinh tế trên cơ sở quan sát hàng ngày.
Mặc dù, kỹ năng biểu đồ
cũng quan trọng (điểm 8 trên biểu đồ PQ) nhưng những báo cáo lợi nhuận tốt còn
quan trọng hơn. Bạn không nên chỉ là một người vẽ biểu đồ mà còn phải biết so
sánh các báo cáo lợi nhuận, vì vậy, bạn cũng phải thành thạo về số học. So với
đầu tư giá trị và đầu tư tăng trưởng, đầu tư theo đà tăng trưởng ở chừng mực
nào đó được đánh giá thấp hơn xét trên phương diện mức độ tin tưởng của các nhà
đầu tư. Là nhà đầu tư theo đà tăng trưởng, bạn cần phải hành động nhanh và quyết
đoán khi phát hiện ra một cổ phiếu có đà tăng trưởng và khi biết được các quy tắc
tham gia và rút lui. Nói cách khác, khi đã xây dựng được một “hệ thống giao dịch
điện tử”, bạn sẽ không cần gọi điện thoại nhờ tư vấn, đánh giá hàng ngày nữa. Hệ
thống này sẽ giúp bạn đưa ra những quyết định chính xác. Về điểm này, chiến lược
đầu tư theo đà tăng trưởng về cơ bản giống như một hành động tung hứng. Bạn phải
giữ rất nhiều quả bóng trên không cùng một lúc và bạn phải biết khi nào nên
tung thêm một quả nữa và khi nào nên thay quả màu đỏ bằng một quả màu xanh.
Đầu tư theo đà tăng trưởng
dành cho những nhà đầu tư vốn không thích thú trước những câu hỏi được đặt ra
cho các nhà đầu tư giá trị và nhà đầu tư tăng trưởng: Đây có phải là mức giá hợp
lý cho mức độ tăng trưởng lợi nhuận này hay không? Cổ phiếu dưới giá trị này đã
thật sự bắt đầu quá trình hồi phục hay chưa? Các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
chỉ cần tuân theo các dấu hiệu: mua khi có dấu hiệu nên mua; bán khi có dấu hiệu
nên bán. Điều đó có nghĩa là, khi một cổ phiếu có động thái biến động giả hay
khi sự xoay vòng có tổ chức nằm ngoài chu kỳ, bạn cần tôn trọng các dấu hiệu và
ngừng đầu tư nếu dấu hiệu đó thể hiện sự thua lỗ. Khả năng nhận ra nhanh chóng
những khoản lỗ nhỏ sẽ giúp bạn ngăn chặn chúng trở thành các khoản lỗ lớn.
Nghiên cứu cổ phiếu có đà tăng trưởng
Cổ phiếu có đà tăng trưởng
là cổ phiếu có mức tăng giá nhanh và bền vững. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân
đằng sau sự tăng giá này và một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng thông minh sẽ phải
tìm ra chúng. Trong môi trường rủi ro cao, những yếu tố tiềm tàng có thể sẽ làm
giảm nhẹ hoặc trầm trọng hơn rủi ro đó.
Cổ phiếu trên đà tăng trưởng
ít rủi ro nhất là cổ phiếu tăng trưởng vì một “sự kiện” nổi bật nào đó, như
tăng trưởng lợi nhuận. Một cổ phiếu có đà tăng trưởng mạnh dựa trên đà tăng trưởng
lợi nhuận trong các quý gần đây duy trì đà tăng trưởng ngắn hạn bền vững hơn so
với các cổ phiếu khác. Tăng trưởng lợi nhuận cũng có thể biến một cổ phiếu dưới
giá trị trở thành cổ phiếu có đà tăng trưởng ít rủi ro hơn khi các nhà đầu tư
phát hiện ra cổ phiếu đó và bắt đầu đầu tư khiến giá bị đẩy lên.
Để giảm thiểu rủi ro khi
đầu tư theo đà tăng trưởng, bạn có thể đầu tư vào một cổ phiếu trong nhóm cổ
phiếu của ngành hoặc lĩnh vực kinh tế hàng đầu. Một đợt sóng lớn có thể nâng
toàn bộ con thuyền lên cao và khi một lĩnh vực hay một ngành nào đó tăng trưởng
đến đỉnh điểm, những cổ phiếu hàng đầu trong ngành đó sẽ được nâng lên nhờ đà
tăng trưởng của nhóm. Ví dụ điển hình là lĩnh vực Internet trong giai đoạn từ
1998-1999. Một cổ phiếu có đà tăng trưởng vì thuộc ngành kinh tế hàng đầu vẫn
có thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng miễn là ngành đó vẫn tiếp tục phát triển.
Do đó, nên thân trọng khi xác định ngành có đà tăng trưởng tích cực nhất và cổ
phiếu có đà tăng trưởng lợi nhuận tốt nhất trong những ngành đó.
Rủi ro hơn nữa là cổ phiếu
tăng trưởng tăng giá do có tin đồn sáp nhập, mua lại hay tung ra sản phẩm mới.
Nếu các sự kiện này không thành công, giá cổ phiếu có thể sẽ sụt giảm trong
toàn bộ đợt tăng trưởng. Trường hợp rủi ro nhất là những cổ phiếu có đà tăng
trưởng dựa trên hoạt động giao dịch trong ngày, bản tin công ty, tại các diễn
đàn hay chỉ là tin tức trên các phương tiện truyền thông do nhà phân tích hay
chuyên gia đưa ra. Đó là những cổ phiếu kém chắc chắn nhất. Chúng rất dễ sụt giảm
mạnh bởi nguyên nhân tăng trưởng của chúng chỉ dựa trên những nhận định riêng lẻ.
Khi những nhận định này thay đổi, cổ phiếu đó có thể tụt giá nhanh đến mức
không một chiến lược rút lui nào có thể giúp
bạn.
Các mô hình cổ phiếu trên đà tăng trưởng điển hình
Hãy xem xét một số biểu đồ
và quan sát các mô hình cổ phiếu có đà tăng trưởng điển hình. Chúng tôi không
có ý định hướng dẫn bạn trở thành một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng mà chỉ muốn
mang đến cho bạn cái nhìn mới về đầu tư theo đà tăng trưởng và bạn có thể áp dụng
nó trong cả ngắn hạn và dài hạn. Mục đích của chúng tôi là giới thiệu cho bạn
các chiến lược đầu tư khác nhau để khi có thời gian, bạn có thể nghiên cứu sâu
những chiến lược mà bạn cho là hấp dẫn nhất.
Trong các biểu đồ của
chương này, chúng tôi đã vẽ các đường chỉ hướng để chỉ ra xu hướng vận động mà
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng bình thường rất dễ nhận ra ở một cổ phiếu.
Những đường này không thể
hiện các điểm tham gia hay rút lui. Hầu hết các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
kết hợp các đường chỉ hướng này với những dấu hiệu kỹ thuật thông báo nên tham
gia hay rút lui khỏi một cổ phiếu.
Năm 2001, tập đoàn Lennar
(LEN) có sức hấp dẫn rất lớn đối với cả các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng ngắn
hạn và dài hạn. Các nhà đầu tư dài hạn có thể nắm giữ cổ phiếu LEN trong suốt
giai đoạn tăng trưởng từ 26-48 đô la, còn các nhà đầu tư ngắn hạn có thể nắm bắt
giai đoạn tốt nhất của mỗi kỳ tăng trưởng mới mà các đường chỉ hướng chỉ ra
trong Biểu đồ 6.2.
Mim (MIMS) cũng là cổ phiếu
yêu thích của các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng dài hạn. Vì cổ phiếu có những
mức dừng khá nhỏ lẻ, cụ thể là mức tăng 20% lợi nhuận, nên các nhà đầu tư dài hạn
có thể thu lợi từ đợt tăng trưởng kéo dài tám tháng nâng giá cổ phiếu từ 1-12
đô la (xem các đường chỉ hướng trong Biểu đồ 6.3). Tuy nhiên, cổ phiếu này cũng
mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư ngắn hạn. Trong tám tháng đó, cổ phiếu này đã
tăng theo các đợt ngắn hạn: ngừng tăng, đôi lúc giảm, rồi sau đó biến động
trong phạm vi hẹp của giá (hay còn gọi là “bất thường”) và cuối cùng lại tiếp tục
đà tăng trưởng. Các giai đoạn sụt giảm loại bỏ các nhà đầu tư ngắn hạn ra khỏi
cuộc chơi, song, họ có thể đầu tư tiếp vào cổ phiếu này khi nó vượt qua các
giai đoạn bất thường như đã diễn ra vào cuối tháng 3, giữa tháng 5 và giữa
tháng 7. Những đợt tăng ngắn này có thể đem lại những khoản lợi nhuận ngắn hạn.
Các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng ngắn hạn sẽ tìm kiếm những cổ phiếu thường xuyên biến động như cổ
phiếu của tập đoàn kinh doanh trực tuyến hàng đầu thế giới eBay (Biểu đồ 6.4).
Về cơ bản, cổ phiếu này không tăng giảm trong toàn bộ thời gian, song nó vẫn
đem lại cơ hội cho các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Trong năm 2001, cổ phiếu
này đã có hai đợt tăng đáng kể: một đợt tăng ngắn trong hai tuần đầu tháng 1 và
sau đó là một đợt tăng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 7. Các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng có thể thu về 50% lợi nhuận tăng thêm trong mỗi đợt tăng này. Vô
tình, nhiều nhà đâu tư cũng có thể tiến hành đầu tư ngắn hạn và biểu đồ của
eBay cho thấy một số xu hướng giảm giá có thể làm tăng khoản lợi nhuận tiềm
năng cho những ai sẵn sàng đầu tư ngắn hạn vào cổ phiếu này (chúng ta sẽ nói
thêm về vấn đề bán khống trong Chương 10).
Các biểu đồ này thể hiện
cơ hội nắm bắt những biến động có khả năng sinh lời cao của nhiều cổ phiếu có
đà tăng trưởng. Có một số biến động, như biến động của MIMS, kéo dài lâu và thống
nhất, trong khi những cổ phiếu như eBay lại chỉ được xem là các cơ hội kinh
doanh bất chợt.
Khi
nào một cổ phiếu được coi là có đà tăng trưởng, khi nào không?
Một cổ phiếu sẽ không còn
được coi làc có đà tăng trưởng khi nó mất đi đà tăng trưởng. Điều cốt yếu là bạn
phải xác định được thời điểm tăng trưởng thật sự biến mất. Việc này không hề dễ
dàng. Nếu một cổ phiếu có đợt tăng giá 15% trong vòng hai tuần và sau đó đứng
im trong ba ngày, liệu đó có phải là lúc đà tăng trưởng dừng lại hay nó chỉ tạm
ngừng để tiếp tục tăng?
Xem xét tình hình tăng
trưởng cổ phiếu của hãng thầu quốc phòng Titan (TTN) trong Biểu đồ 6.5. Từ
tháng 1-2, TTN có những dấu hiệu rõ ràng của cổ phiếu có đà tăng trưởng, nhưng
các nhà đầu tư khôn ngoan theo chiến lược đà tăng trưởng đã rút lui vào cuối
tháng 2 hoặc đầu tháng 3 khi giá cổ phiếu này nằm trong khoảng từ 23-24 đô la/cổ
phiếu. Sau đó, TTN lại mất đi số điểm có được sau hai tháng tăng và chạm sàn
vào tháng 4, rồi mới quay trở lại là một cổ phiếu có đà tăng trưởng với giá 24
đô la. Đã có một khoảng thời gian từ hai đến ba ngày, cổ phiếu này ngừng tăng
và sụt giảm lần nữa. Giữa tháng 6, cổ phiếu này vực dậy nhưng không kéo dài. Đến
giữa tháng 10, TTN đã vượt qua mốc 24 đô la/cổ phiếu và biến động tại mức giá
26 đô la.
Như vậy, TTN là một cổ
phiếu có đà tăng trưởng biến đổi thường xuyên: có lúc, nó là một cổ phiếu có đà
tăng trưởng, có lúc lại không: có lúc thay đổi rất chậm, nhưng có lúc lại thay
đổi rất nhanh. TTN có thể tạm ngưng giữa đợt tăng trưởng và sau đó trở lại hoặc
dao động và mất đi số điểm đã có.
Cổ phiếu của công ty truyền
thông WebEx (Biểu đồ 6.6) lại cho thấy mô hình biến động đà tăng trưởng và sụt
giá thậm chí còn nhanh hơn. Bốn đợt tăng trưởng trong các tháng 3, 5, 6 và 10
kéo dài từ 1-4 tuần và đem lại cho các nhà đầu tư khôn ngoan từ 4-12 điểm trong
mỗi đợt (25-50% lợi nhuận).
Cổ phiếu của hệ thống dịch
vụ tài chính AmerCredit (ACF, Biểu đồ 6.7) là ví dụ điển hình cho thấy tại sao
các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng nên rút lui khi xu hướng tăng trưởng bị phá
vỡ. Kể từ năm 2000 cho đến hết tháng 7/2001, ACF luôn có xu hướng tăng trưởng
kéo dài, tăng từ 20 đô la lên tới 60 đô la trong tám tháng. Khi xem xét lại, một
nhà đầu tư có thể sẽ lập luận rằng nếu bạn đã đầu tư vào một cổ phiếu khi giá của
nó là 20 đô la, vậy sao bạn không giữ cổ phiếu đó cho đến khi giá đạt mức 60 đô
la? Lý do là bởi vì chúng ta chỉ có thể nhìn thấy xu hướng đi lên kéo dài này
khi lật lại vấn đề mà thôi. Khi cổ phiếu này bắt đầu biến động và phá vỡ đường
xu hướng vào tháng 2 và đầu tháng 6, bạn không thể biết xu hướng biến động này
chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Nó chỉ có thể đưa ra dấu hiệu của một đợt suy giảm
lớn như từng xảy ra vào tháng 8/2001. Đến khi bạn nhận ra xu hướng sụp đổ vào
tháng 7 là một sự đảo chiều lớn, có thể bạn sẽ chẳng còn cách nào khác ngoài việc
từ bỏ 50% lợi nhuận. Đó là lý do tại sao bạn bán cổ phiếu này khi đà tăng trưởng
kết thúc.
Vậy làm cách nào bạn biết
được điều đó? Bạn cần kết hợp kỹ năng số học và kỹ năng phân tích kỹ thuật để
nhận ra điểm kết thúc của đà tăng trưởng. Không có cái chuông nào báo cho bạn
biết xu hướng đi lên đã kết thúc, vì vậy, bạn buộc phải có một vài kế sách rút
lui, đó chính là vấn đề chúng ta sẽ bàn trong “chiến lược rút lui” ở phần tiếp
theo.
QUY TRÌNH ĐẦU TƯ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ THEO ĐÀ TĂNG TRƯỞNG
Ba bước trong quá trình đầu
tư theo đà tăng trưởng đều rất quan trọng, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư
ngắn hạn, những người muốn kiếm được nhiều tiền trong thời gian rất ngắn. Xuất
phát từ bản chất nhanh gọn của hoạt động đầu tư theo đà tăng trưởng, có thể khẳng
định khâu lựa chọn cổ phiếu có vài trò hết sức quan trọng, nhằm định rõ các chiến
lược tham gia và rút lui và đồng thời và quản lý chặt chẽ danh mục đầu tư của bạn.
Các chiến lược
lựa chọn cổ phiếu: Hướng đến đợt sóng
lớn tiếp theo
Ở một chừng mực nào đó,
khó có thể phát hiện ra các cổ phiếu trên đà tăng trưởng, bởi khi tìm ra một cổ
phiếu đang tăng trưởng (việc này không quá khó), bạn cần xác định rõ các nguyên
nhân gây ra đợt tăng trưởng đó. Như chúng ta đã thảo luận ở trên, những cổ phiếu
có mức rủi ro thấp nhất là cổ phiếu có đà tăng trưởng dựa trên lợi nhuận, giá
trị căn bản hoặc tình hình hoạt động hiệu quả của toàn ngành. Còn đà tăng trưởng
của những cổ phiếu ít được kỳ vọng nhất lại là do tin đồn, hoạt động giao dịch
hàng ngày, bản tin công ty hoặc từ các diễn đàn.
Investor’s Business Daily
đã xây dựng hai chỉ báo cho phép bạn xác định những cổ phiếu và ngành công nghiệp
có đà tăng trưởng giá và lợi nhuận. Chỉ báo tăng trưởng giá giúp bạn xác định
những cổ phiếu và ngành công nghiệp hàng đầu có mức tăng trưởng giá nhanh trong
thời gian tương đối ngắn, còn chỉ báo tăng trưởng lợi nhuận lại giúp bạn xác định
những cổ phiếu có mức tăng trưởng lợi nhuận lớn trong các quý gần nhất. Tờ nhật
báo này còn có một phụ chương liệt kê danh sách những cổ phiếu và ngành có mức
giá và lợi nhuận cao nhất. Độc giả cũng có thể truy cập vào trang www.investors.com để tìm kiếm thêm thông tin.
Cách tốt nhất để tìm ra cổ
phiếu có đà tăng trưởng là sử dụng một chương trình sàng lọc cổ phiếu phù hợp.
Nếu là nhà đầu tư theo phương pháp từ trên xuống, điều đầu tiên bạn cần làm là
tìm ra những ngành kinh tế có đà tăng trưởng tốt nhất, sau đó sàng lọc để tìm
ra những cổ phiếu có đà tăng trưởng tốt nhất trong các ngành đó. Hãy nhớ rằng,
các ngành kinh tế giữ vị trí hàng đầu khi phần lớn cổ phiếu của chúng đạt được
đà tăng trưởng cao. Do đó, bạn phải cẩn thận khi lựa chọn cổ phiếu có đà tăng
trưởng theo phương pháp này. Bạn cũng có thể tìm kiếm từ các ngành bắt đầu chuyển
hướng đi lên – đó là những ngành từng suy giảm và hiện đang quay trở lại. Sau
đó, bạn sàng lọc cổ phiếu có đà tăng trưởng hàng đầu trong ngành đó, chúng
chính là những cổ phiếu thúc đẩy toàn ngành phát triển. Ngoài ra, bạn còn có thể
tìm kiếm những ngành hàng đầu hiện đang hoạt động và chưa có dấu hiệu đi xuống,
rồi tìm kiếm cổ phiếu trong đó. Trong Chương 9 chúng ta sẽ nói thêm về chiến lược
đầu tư nào.
Sàng lọc những cổ phiếu có đà tăng trưởng.
Dưới đây là một số biến số
cụ thể mà bạn có thể sử dụng khi đã có trong tay một chiến lược sàng lọc những
cổ phiếu có đà tăng trưởng.
•
Biến
động giá lớn nhất so với ngày hôm trước, tuần trước, tháng trước: Đây là sự
thay đổi tỷ lệ giá cổ phiếu trong khoảng thời gian cụ thể. Việc một cổ phiếu
tăng giá từ 2 đô la lên 28 đô la là điều bất thường và đó chính là điều mà
chúng ta đang tìm kiếm;
•
Phá
vỡ giai đoạn đáy: Khi một cổ phiếu chỉ được giao dịch trong thời gian ngắn của
một giai đoạn kéo dài, nó được gọi là giai đoạn đáy. Khi cổ phiếu đó tăng trưởng
vượt qua phạm vi biến động đó, nó được coi là sự phá vỡ giai đoạn đáy. Cổ phiếu
có đà tăng trưởng cao là cổ phiếu đã thoát khỏi mô hình đáy dựa trên một sự kiện
lợi nhuận. Bạn có thể sử dụng nhiều công cụ sàng lọc để tìm ra những cổ phiếu
đang có xu hướng phá vỡ giai đoạn này.
•
Mức
tăng trưởng lợi nhuận ngắn hạn cao nhất so với cùng kỳ: Mức tăng trưởng lợi nhuận
trong quý này khi so sánh với cùng kỳ năm ngoái có thể là cơ sở của một đà tăng
trưởng mạnh (mức tăng này nên để dưới dạng tỷ lệ). Ví dụ: nếu cổ phiếu A tăng
lên 75 xu (20%) và cổ phiếu B tăng 22 xu (80%) trong quý vừa qua, thì rõ ràng B
là cổ phiếu có đà tăng trưởng cao nhất, nhanh nhất. Đây chính là cổ phiếu các
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng đang tìm kiếm;
•
Mức
tăng lợi nhuận dự báo trong một tháng mà các nhà phân tích đưa ra: Nhiều nghiên
cứu cho thấy dự báo tăng trưởng của các nhà phân tích là một trong những dấu hiệu
chính xác nhất cho thấy một đợt tăng trưởng về giá. Khi các chuyên gia phân
tích điều chỉnh dự báo lên một mức cao hơn, ý kiến của họ thường được giới đầu
tư hoan nghênh;
•
Lượng
tiền cao nhất: Có thể sử dụng chỉ báo tích lũy/đóng góp hay chỉ báo dòng tiền
Chaiken để đánh giá lượng tiền của một cổ phiếu. Số điểm cao của các chỉ báo
này cho thấy tiền đang được đổ vào cổ phiếu (nói đơn giản, các chỉ báo này tính
toán lượng tiền tăng theo ngày khi so sánh với lượng tiền giảm theo ngày). Cổ
phiếu có lượng tiền đổ vào nhiều nhất là cổ phiếu được đầu tư nhiều nhất;
Nếu bạn đang đầu tư theo
chiến lược từ trên xuống, bạn có thể sử dụng tiêu chí sau cho nhóm ngành:
•
Biến
động giá lớn nhất của nhóm ngành so với ngày hôm trước, tuần trước, tháng trước:
Tiêu chí này sẽ giúp bạn tìm ra nhóm ngành tốt nhất. Ở một số công cụ tìm kiếm,
bạn sẽ phải sử dụng các công cụ sàng lọc nhóm ngành trước rồi mới giới hạn phạm
vi tìm kiếm cổ phiếu trong nhóm ngành đó.
Đánh giá danh sách cổ phiếu có đà tăng trưởng rút gọn
Khi đã có trong tay một
danh sách rút gọn các cổ phiếu có đà tăng trưởng, bạn cần thu gọn lại xuống chừng
bốn hay năm loại để mua ngay. Bạn có thể loại bỏ những cổ phiếu có nguyên nhân
xuất hiện đà tăng trưởng không rõ ràng hoặc những cổ phiếu từ trước đến nay
không có mô hình tăng trưởng tốt. Bảng 6.1 gồm những câu hỏi giúp bạn đánh giá
lại các cổ phiếu có trong danh sách. Cổ phiếu nào được đánh giá cao ở nhiều
tiêu chí nhất chính là cổ phiếu tiềm năng nhất.
Khi sử dụng quy trình
đánh giá này, bạn có thể loại bỏ những cổ phiếu có đà tăng trưởng kém nhất. Tuy
nhiên, có thể trong danh mục của bạn vẫn còn quá nhiều cổ phiếu. Vì vậy, để tìm
ra những cổ phiếu có đà tăng trưởng tốt nhất, bạn cần có một chiến lược mua vào
tốt.
Các
chiến lược mua vào: Đà tăng trưởng có thật sự diễn ra hay không?
Một chiến lược mua vào hiệu
quả chỉ là một nửa vấn đề đối với nhà đầu tư theo đà tăng trưởng (nửa còn lại
chính là một chiến lược rút lui hiệu quả). Điều cốt yếu là phải đầu tư vào đúng
thời điểm mà bạn tin chắc rằng đà tăng trưởng thật sự đang diễn ra. Do đó, một
chỉ báo đã được chứng minh là có khả năng chỉ ra dấu hiệu đảo chiều sẽ rất cần
thiết đối với bạn. Biểu đồ 6.8, 6.9 và 6.10 thể hiện ba trong số những chỉ báo
dấu hiệu đảo chiều phổ biến nhất – chỉ báo MACD, chỉ số Stochastics và chỉ báo sức mua/bán tương đối (RSI ). Những
chỉ báo này được nhiều nhà đầu tư theo đà tăng trưởng sử dụng để tìm kiếm dấu
hiệu tham gia và dấu hiệu rút lui khỏi thị trường.
Các
chiến lược bán ra
Chiến lược bán ra là nửa
còn lại trong cuộc chơi của các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Hầu hết các chỉ
báo kỹ thuật không chỉ ra được khuynh hướng kết thúc của xu hướng, mà chỉ đưa
ra dấu hiệu cho thấy một xu hướng đã, đang diễn ra và bắt đầu đảo chiều. Tuy
nhiên, vẫn có chỉ báo báo hiệu khi nào một xu hướng dần dần biến mất, ví dụ như
chỉ báo cho thấy lượng tiền đổ vào một cổ phiếu đang giảm dần. Hầu hết các nhà
đầu tư theo đà tăng trưởng đều quan tâm đến các chỉ báo hiệu sự kết thúc của một
xu hướng và họ thường rút lui sau khi những chỉ báo này lên tới đỉnh (chỉ báo
MACD, RSI và Stochastics cũng chính là những chỉ báo báo hiệu dấu hiệu kết thúc
xu hướng). Nếu một cổ phiếu sụt giá ngay sau khi bạn mua nó, ngay lập tức bạn sẽ
nhận được dấu hiệu rút lui. Điều này đồng nghĩa với việc bạn sẽ bị lỗ một khoản
nào đó. Lời khuyên của chúng tôi là, hãy lắng nghe những dấu hiệu rút lui dành
cho bạn.
Ngoài ra, nhà đầu tư theo
đà tăng trưởng còn có thể sử dụng nhiều cách khác để biết đà tăng trưởng của cổ
phiếu đó đã chững lại hay chưa. Một trong những phương pháp đó là so sánh cổ
phiếu đó với chỉ số tương thích (cổ phiếu công nghệ có thể đem so sánh với chỉ
số tổng hợp Nasdaq, cổ phiếu của công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn với
chỉ số S&P 500). Điều bạn đang tìm kiếm là sự trái ngược giữa giá cổ phiếu
và các chỉ số. Nếu cổ phiếu đó sụt giá cùng với chỉ số thì bạn không cần bận
tâm gì nữa. Nhưng nếu cổ phiếu đó sụt giá trong khi chỉ số không thay đổi thì
đó là dấu hiệu cho thấy đà tăng tưởng của cổ phiếu đã kết thúc.
Để xác định sự kết thúc của
đà tăng trưởng, bạn còn có thể tìm hiểu nguyên nhân tạo nên đà tăng trưởng này
và xem nguyên nhân đó đã thay đổi hay chưa. Nếu đà tăng trưởng của một cổ phiếu
xuất phát từ đà tăng trưởng của ngành, thì thời điểm rút lui tốt nhất là khi dấu
hiệu đầu tiên của sự suy thoái đà tăng trưởng ngành xuất hiện (nếu bản thân cổ
phiếu đó vẫn chưa thể hiện một dấu hiệu rút lui nào). Còn nếu lợi nhuận tăng
trưởng mạnh là nguyên nhân của đà tăng trưởng thì lời cảnh báo lợi nhuận quý tiếp
theo không đạt được như kỳ vọng sẽ làm đảo lộn đà tăng trưởng đó. Thậm chí, chỉ
một dấu hiệu cảnh báo nhỏ về lợi nhuận cũng có thể làm thay đổi nhận thức hoặc
sự tin tưởng của nhà đầu tư vào cổ phiếu.
Tuy nhiên, sự đảo chiều
không phải là lý do duy nhất để nhà đầu tư rút lui khỏi một cổ phiếu đang có đà
tăng trưởng. Đôi khi các nhà đầu tư cũng muốn bán một cổ phiếu có đà tăng trưởng
để mua lấy một cổ phiếu khác có đà tăng trưởng tốt hơn. Điều này chỉ xảy ra đối
với phong cách đầu tư này. Ví dụ, nếu nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư của bạn
không nhiều và bạn thấy rằng cổ phiếu B có các đặc điểm của một đà tăng trưởng
tốt hơn cổ phiếu A và bạn đang nắm giữ, lúc đó, bạn sẽ muốn bán cổ phiếu A để
mua cổ phiếu B, dù đà tăng trưởng của A vẫn đang diễn ra.
Chiến lược rút lui rất
quan trọng. Nó giúp bạn chặn lỗ nhanh chóng và giữ lại được hầu hết lợi nhuận
mà bạn đã thu được từ đà tăng trưởng. Dù chiến lược rút lui của bạn dựa trên một
chỉ báo kỹ thuật đơn giản hay một hệ thống máy móc phức tạp, điều quan trọng là
bạn phải lựa chọn công cụ đáng tin cậy, dễ sử dụng và sẵn có nhất. Sau khi đã
xây dựng được chiến lược lựa chọn thời điểm, điều tiếp theo bạn cần làm là giám
sát chặt chẽ danh mục đầu tư của mình.
Các phương pháp quản lý danh mục đầu tư theo đà tăng
trưởng
Việc quản lý danh mục đầu
tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Dưới
đây là một số phương pháp bạn nên nhớ khi quản lý một danh mục đầu tư cổ phiếu
có đà tăng trưởng.
•
Tính
đa dạng: Danh mục đầu tư của nhà đầu tư theo đà tăng trưởng thường nhỏ hơn danh
mục đầu tư của các nhà đầu tư giá trị hay đầu tư tăng trưởng. Thông thường, ở bất
kỳ thời điểm nào, nhà đầu tư theo đà tăng trưởng cũng chỉ nắm giữ từ 5-10 loại
cổ phiếu. Họ lý giải tính thiếu đa dạng là do bản chất ngắn hạn của phong cách
đầu tư và việc giám sát các cổ phiếu đòi hỏi thời gian dài. Nhưng theo chúng
tôi, bạn nên nắm giữ nhiều cổ phiếu hơn con số đó. Hãy nhớ rằng, nếu danh mục đầu
tư của bạn chỉ có năm cổ phiếu thì mỗi cổ phiếu chiếm tỷ lệ 20% trong toàn bộ
danh mục đó. Khi một cổ phiếu rớt 50% giá thì lợi nhuận của toàn bộ danh mục đầu tư sẽ giảm đi 10%;
•
Giám
sát danh mục đầu tư: Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng là một cuộc chơi ngắn
hạn, bởi các đà tăng trưởng chỉ diễn ra trong thời gian ngắn do sự dao động
liên tục của thị trường. Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
phải giám sát danh mục đầu tư của mình hàng ngày. Họ không chỉ cần để ý xem các
cổ phiếu đó có dấu hiệu đảo chiều hay không, mà còn phải chú ý tới các thông
báo lợi nhuận, hoạt động của ngành và những sự kiện có thể ảnh hưởng đến danh mục
đầu tư, các cơ hội mới xuất hiện hoặc các cơ hội tốt hơn. Là nhà đầu tư theo đà tăng trưởng, bạn cần giám sát
nhóm ngành của cổ phiếu mà mình đang nắm giữ và chú ý tới biến động của các chỉ
số so sánh liên quan. Bạn cần liên tục kiểm tra lại cổ phiếu của mình và sẵn
sàng hành động khi cơ hội xuất hiện. Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng là một
hành trình không có điểm kết và luôn hướng tới những điều tốt nhất. Nó đòi hỏi các nhà đầu tư phải thận trọng, cảnh
giác và có khả năng hành động nhanh chóng, quyết đoán;
•
Tỷ
lệ nắm giữ tiền mặt: Tỷ lệ nắm giữ tiền mặt thay đổi tùy theo các nhà đầu tư
khác nhau. Trong thời điểm thua lỗ, một số người có thể nắm giữ đến 50% tiền mặt,
nhưng một số người khác lại duy trì tỷ lệ đầu tư 100%. Các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng xuất sắc nhất sẽ nắm giữ nhiều tiền mặt hơn khi họ không tìm được cổ
phiếu có đà tăng trưởng hoặc khi phải đương đầu với một loạt khoản thua lỗ.
Trong một số trường hợp, họ thường tránh sang một bên hoặc giảm lượng cổ phiếu
nắm giữ cho đến khi thị trường có dấu hiệu tích cực, phù hợp hơn với chiến lược
đầu tư của họ.
Nghiên cứu trường hợp: công ty Discount Autoparts
(DAP)
Mục đích của nghiên cứu
này là tìm kiếm một công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ nhằm chứng minh
cho quy trình lựa chọn các cổ phiếu có đà tăng trưởng.
Ngày 17/7/2001, công ty
DAP trở thành một trong những cổ phiếu có đà tăng trưởng hàng đầu trong nhóm
công ty quy mô nhỏ. Giá trị thị trường của công ty này là 259 triệu đô la và tỷ
số P/E là 14,6 dựa trên dự báo EPS trong năm tài khóa 2002 (năm tài khóa kết
thúc vào tháng 5/2002). Cổ phiếu DAP đã đạt được kết quả tuyệt vời khi xét về
các đặc điểm của một cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng:
• Tỷ lệ thay đổi giá là 18% trong tháng vừa qua;
• Xếp thứ 94 trong nhóm cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng giá;
• Xếp thứ 99 trong nhóm cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng
lợi nhuận;
•
Xếp
thứ 88 trong nhóm tích luỹ/phân phối, là chỉ tiêu đo lường dòng tiền mặt. DAP
là công ty như thế nào?
Bước đầu tiên của quá
trình định giá cổ phiếu là phải tìm hiểu thông tin về công ty. DAP là nhà cung
cấp hàng đầu các bộ phận thay thế cho thợ máy chuyên nghiệp và các cá nhân tự
thay thế tại nhà, bảo dưỡng các bộ phận và linh kiện xe hơi. Tính đến ngày
28/8/2001, DAP đã có 668 cửa hàng tại Alabama, Florida, Georgia, Louisiana, Mississippi
và Nam Carolina.
Công ty với 25% vốn chủ sở
hữu thuộc về các thành viên trong gia đình, đã ký thỏa thuận sáp nhập với
Advance AutoParts, một công ty tư nhân chuyên cung cấp bộ phận xe hơi lớn thứ
hai trên toàn nước Mỹ.
Nhìn chung, một cổ phiếu
sẽ là ứng cử viên cho chiến lược đầu tư theo đà phát triển khi nó được bán gần
bằng mức giá mua lại. Nhưng tình huống của DAP là một vụ sáp nhập, tức là sẽ tạo
ra một công ty mới từ các công ty sáp nhập và được giao dịch trên Sàn giao dịch
chứng khoán New York (NYSE). Nhà đầu tư sẽ tiếp tục theo đuổi cổ phiếu như một
cổ phiếu đơn lẻ. Vì vậy, vụ sáp nhập sắp diễn ra có thể được xem như một sự kiện
làm tăng giá của cổ phiếu này.
Nghiên cứu biểu đồ
Từ một điểm rất thấp, đạt
mức 5 đô la hồi cuối tháng 12 năm trước, DAP đã có bước nhảy ngắn đạt mức 7 đô
la hồi đầu tháng 1 (xem Biểu đồ 6.11). Sau đó, cổ phiếu tiếp tục duy trì mức
giá cân bằng trong vài tháng và cuối cùng bùng nổ vào giữa tháng 4 với bước đột
phát lên tới gần 14 đô la trong tháng 6. Sau khi trở lại vị trí cũ, cổ phiếu lại
tăng vọt, đạt mức kháng cự chính là 14 đô la.
Mặc dù trong tháng 9,
công ty đã công bố các con số lợi nhuận tuyệt vời và vụ sáp nhập sắp sửa diễn
ra, nhưng cổ phiếu vẫn giữ mức ổn định là 14 đô la. Mức giá này tiếp tục ổn định
trong vòng hai tháng, cho tới đợt bùng nổ vào đầu tháng 10. Giai đoạn duy trì
kéo dài đó có thể là do lúc đó thị trường
phố Walls đang xem xét tình trạng kinh tế của vụ sáp nhập.
Nhưng như chúng tôi đã
nói, đối với một cổ phiếu đang lưu hành, đây là điều kiện kinh tế rất tuyệt vời
và sự bùng nổ của mô hình nền tảng là lý do chính khiến DAP trở thành lựa chọn
đầu tư theo đà tăng trưởng hồi giữa tháng 10. Ngày 17/10, cổ phiếu đóng cửa
trên mức kháng cự 14 đô la.
Bản kiểm tra đánh giá cổ phiếu có đà tăng trưởng
|
Vào thời điểm thực hiện
nghiên cứu, DAP vẫn là một trong những cổ phiếu xếp hạng cao xét trên đặc điểm
tạo đà và kết quả kiểm tra đánh giá trong Bảng 6.1.
•
Các
đà tăng trưởng: Trong hơn hai năm qua, DAP chịu một vài đợt suy giảm mạnh trong
ngắn hạn và có xu hướng tăng dài hạn trong năm 2001, bắt đầu từ tháng 1;
•
Lợi
nhuận tăng theo quý trong thời gian gần đây: Theo kết quả được báo cáo trong
quý I năm 2002, lợi nhuận trên một cổ
phiếu đạt mức 0,35 đô la (kết thúc ngày 31/8/2001) so với mức 0,21 đô la trên một
cổ phiếu hồi quý I năm tài khóa 2001 (năm tài khóa 2002 kết thúc vào ngày 5/3/2002);
•
Tỷ
lệ tăng trưởng lợi nhuận cao trong 1-2 năm qua: Mức tăng trưởng lợi nhuận trong
quá khứ của DAP trong năm qua là 70%;
•
Điều
chỉnh phân tích: Các nhà phân tích không có dự đoán sửa đổi theo hướng đi lên
nào. Thực tế, chỉ có một nhà phân tích đang theo dõi cổ phiếu này, đây là điều
bình thường khi xét về quy mô của công ty.
•
Những
bất ngờ về lợi nhuận: DAP đã vượt qua con số dự đoán giá cả của quý trước tới gần 30% (theo dự đoán, lợi nhuận là 0,44
đô la trên một cổ phiếu trong khi thực tế là 0,57 đô la);
• Lời đề nghị mua/giữ/bán cổ phiếu: Chỉ có một lời đề
nghị mua khiêm tốn;
•
Giá
cổ phiếu trong mối tương quan với mức giá trung bình trong 30 ngày: Giá cổ phiếu DAP đã cao hơn mức giá dao động
trung bình trong 30 ngày của nó (xem biểu đồ
6.11).
•
Dòng
tiền: Có dòng tiền đổ vào cổ phiếu (trên thực tế, DAP xếp thứ 88 trong nhóm
tích luỹ/phân phối).
• Phá vỡ mức kháng cự. Gần đây, cổ phiếu đã phá vỡ mức
kháng cự cơ bản 14 đô la;
•
Mô
hình kỹ thuật MACD: Tại thời điểm phân tích, DAP đang nằm trong phạm vi MACD đạt
được mức phá vỡ tích cực trong hai tuần trước đó (xem biểu đồ 6.11). Đây là mô
hình rất tích cực;
•
Tin
tức gần đây. DAP đã cam kết sáp nhập với công ty kinh doanh linh kiện ô tô lớn
thứ hai nước Mỹ – Advance AutoParts. (Lưu ý: Vụ sáp nhập đã hoàn tất vào ngày
29/1/2001 và giờ đây công ty mới sẽ
giao dịch trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) với tên giao dịch là
Advance Auto Parts, Inc, mã giao dịch là AAP);
•
Kết
quả hoạt động của nhóm ngành: Giá cổ phiếu của nhóm ngành cửa hàng bán lẻ/chuyên biệt đã vượt trên mức trung bình hồi tháng 10/2001, xếp thứ 80 trong nhóm ngành đang trên đà tăng trưởng.
Kết luận: Cổ phiếu có đà tăng trưởng lợi nhuận và giá
Giá cổ phiếu của DAP tăng
là nhờ sự tăng trưởng lợi nhuận, vì vậy công ty này là ứng cử viên sáng giá cho
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng vào giữa tháng 10. Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận kỳ
vọng trong năm tài khóa 2002 là 27,4% và năm tài khóa 2003 là 24,4%, vượt trên
mức trung bình của ngành và chỉ số S&P 500. Rõ ràng là, DAP đã đáp ứng được
các mục tiêu định lượng của một cổ phiếu trên đà tăng trưởng. Do hầu hết các mục
trong danh mục kiểm tra định giá đều cho kết quả dương nên cổ phiếu DAP được
công nhận là cổ phiếu có đà tăng trưởng tuyệt vời vào ngày 17/10.
KHÔNG CÓ QUỸ TƯƠNG HỖ CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG
Đặc điểm của quỹ tương hỗ
thường trái ngược với mục tiêu chính của đầu tư theo đà tăng trưởng. Nhà đầu tư
bị cuốn vào phong cách đầu tư theo đà tăng trưởng là những người thích hành động
và mong muốn thu được lợi nhuận nhanh chóng, đáng kể. Cả hai điều đó đều không
phù hợp với các quỹ tương hỗ. Quy mô các quỹ tương hỗ khiến các nhà đầu tư rất
khó thực hiện chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng. Để đảm bảo hoạt động của
quỹ, các nhà quản lý cần có khả năng đầu tư hàng triệu đô la vào mỗi cổ phiếu,
điều kiện này khiến việc đầu tư vào và rút vốn ra khỏi cổ phiếu không được
nhanh chóng. Và tất nhiên, di chuyển nhanh chóng là yếu tố cốt lõi trong đầu tư
theo đà tăng trưởng.
Tất nhiên, bạn có thể tìm
kiếm các quỹ coi kết quả hoạt động trong ngắn hạn là mục tiêu quan trọng nhất
hoặc tìm kiếm một nhà quản lý quỹ có phong cách tăng trưởng. Kiểu quỹ đó có thể
mang đến cho bạn cơ hội đầu tư theo đà tăng trưởng, nhưng điều này không hề dễ
dàng.
Quỹ ETF có nhiều hoạt động
hơn quỹ tương hỗ mặc dù nó được tạo nên từ một nhóm cổ phiếu cố định. Một nhà đầu
tư theo đà tăng trưởng có thể xác định một ngành tăng trưởng và mua cổ phiếu của
quỹ ETF đại diện cho ngành đó.
Nếu bạn là một nhà đầu tư
được công nhận chính thức – tức là một nhà đầu tư sở hữu một số tiền ít nhất 1
triệu đô la hoặc có mức doanh thu thường niên từ 200 nghìn đô la trở lên – thì
quỹ tự bảo hiểm là phương án tối ưu. Quỹ tự bảo hiểm không có nhiều quy định
như quỹ tương hỗ. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà quản lý quỹ tự bảo hiểm
được tự do hơn trong việc sử dụng các kỹ thuật đầu tư như bán khống hoặc vay
nóng, hơn nữa, chúng không cần phải đa dạng hóa nhiều như quỹ tương hỗ. Nếu bạn
quan tâm, hãy kiểm tra nguồn tin trực tuyến về các quỹ tự bảo hiểm với mục tiêu
đầu tư theo đà tăng trưởng.
Nguồn tin trực tuyến về những cổ phiếu có đà tăng trưởng
Nguồn tin trực tuyến về cổ
phiếu có đà tăng trưởng rất đa dạng. Dưới đây là danh sách những từ khóa bạn có
thể sử dụng trên các công cụ tìm kiếm để tìm ra các trang web liên quan tới cổ
phiếu có đà tăng trưởng.
Từ khóa để tìm kiếm cổ phiếu có đà tăng trưởng
LỜI KHUYÊN ĐỂ ĐẦU TƯ THEO ĐÀ TĂNG TRƯỞNG THÀNH CÔNG
1. Không lựa chọn theo cảm tính: Đây là
quy tắc số một cho bất kỳ nhà đầu tư nào, nhưng đặc biệt quan trọng đối với nhà
đầu tư theo đà tăng trưởng;
2. Luôn có kỷ luật: Kỷ luật trong đầu tư
theo đà tăng trưởng giữ vai trò quan trọng hơn so với các phong cách đầu tư
khác. Nếu bạn đang tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng từ cổ phiếu
– điểm cốt lõi của đầu tư theo đà tăng
trưởng – thì bạn phải biết khi nào nên rút khỏi thị trường và phải có kỷ luật để
tuân theo phương pháp. Bạn phải rút lui khi chiếc máy tính thời gian của bạn
thông báo đà tăng tốc chắc chắn đã kết thúc. Bạn sẽ không thể là một nhà đầu tư
theo đà tăng trưởng nếu ngồi yên một chỗ và nhìn cổ phiếu rớt giá dần;
3. Xây dựng chiến lược gia nhập và rút
khỏi thị trường: Đối với một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng, một chiến lược gia
nhập và rút khỏi thị trường hiệu quả là điều quyết định. Phương pháp đó sẽ phải
dựa trên các phân tích kỹ thuật. Bạn có thể lựa chọn một công cụ dự báo hiệu quả
như MACD, RSI, Stochastics hay nếu bạn là một nhà đầu tư kinh nghiệm, bạn có thể
dùng cả hệ thống giao dịch trên máy;
4. Linh hoạt: Gia nhập nhanh chóng và rút lui cũng hết sức
mau lẹ;
5. Không “phải lòng” cổ phiếu của bạn:
Đây là một lời khuyên chân tình cho bất kỳ nhà đầu tư nào, nhưng đặc biệt quan
trọng đối với nhà đầu tư theo đà tăng trưởng;
6. Chú ý mỗi ngày đến cổ phiếu đã chọn:
Sự di chuyển cổ phiếu có đà tăng trưởng có thể
bắt đầu hoặc kết thúc trong một ngày. Do đó, bạn nên nghiên cứu biểu đồ
cổ phiếu mỗi ngày và chuẩn bị tinh thần nhanh chóng rút khỏi thị trường khi có
dấu hiệu rút lui. Bạn cũng phải dành thời gian nghiên cứu biểu đồ và các công cụ
xếp loại cổ phiếu trên danh mục theo dõi của bạn và chuẩn bị gia nhập ngay khi
có các dấu hiệu tốt lành;
7. Áp dụng chiến lược đầu tư từ trên xuống
dưới: Đầu tư từ trên xuống dưới là chiến lược tìm kiếm các nhóm ngành có kết quả
hoạt động cao nhất, sau đó tìm kiếm những cổ phiếu “nóng” nhất trong đó (xem
Chương 9). Điều này có nghĩa là, luôn để ý tới kết quả hoạt động của những nhóm
ngành mà bạn đang sở hữu cổ phiếu. Nếu nhóm ngành có xu hướng đi xuống, rất có
thể cổ phiếu có đà tăng trưởng của bạn cũng đi xuống và bạn cần phải hành động
thật nhanh;
8. Theo dõi sự thay đổi trong các dự
đoán: Chú ý tới những con số dự đoán xu hướng đi xuống. Chúng có thể là dấu hiệu
cho thấy xu hướng suy giảm trong ngắn hạn của cổ phiếu có đà tăng trưởng;
9. Theo dõi các ấn phẩm của công ty: Dấu
hiệu cho thấy các sự kiện trong tương lai có thể ảnh hưởng tiêu cực tới cổ phiếu
thường xuất hiện ngay trong các ấn phẩm nội bộ của công ty. Mặc dù bạn không đầu
tư vào cổ phiếu có đà tăng trưởng trong thời gian quá dài, nhưng bạn vẫn nên theo dõi các công bố của
công ty để phòng trường hợp có tin tức xấu. Không giống như các phong cách đầu
tư khác, một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng điển hình bao giờ cũng rút lui trước
rồi đặt câu hỏi sau;
10. Chấp nhận thua lỗ: Nếu công cụ dự báo
của bạn cho thấy dấu hiệu cần rút khỏi thị trường, hãy làm theo nó. Đáng tiếc
là, quá nhiều nhà đầu tư không sẵn sàng thừa nhận mình đã sai và không chấp nhận
thua lỗ. Nhưng nếu bạn không chấp nhận phần thua lỗ nhỏ, bạn sẽ tiếp tục thấy
mình lao xuống dốc không phanh. Vì nếu không rút lui nhanh, phần thua lỗ nhỏ sẽ
ngày càng lớn hơn. Đây là vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả các nhà đầu tư,
nhưng đặc biệt nghiêm trọng đối với nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Khi bạn nhận
được tín hiệu rút khỏi thị trường từ bất kỳ công cụ dự báo nào, hãy làm theo
nó, thậm chí ngay cả khi bạn buộc phải thừa nhận sai lầm trong lần lựa chọn cổ
phiếu đầu tiên.
CHƯƠNG 7. Chiến
lược đầu tư kỹ thuật
Các chuyên gia đầu tư kỹ
thuật luôn tin tưởng rằng, tất cả thông tin về một công ty đều được thể hiện
qua giá cổ phiếu. Với họ, nền tảng căn bản của công ty, các bản báo cáo lợi nhuận,
kết quả đạt được trong nhóm ngành, tin tức mới nhất, thậm chí các con số dự
đoán, tin đồn về khả năng sáp nhập hay mua lại đều được phản ánh trong giá cổ
phiếu. Là nhà đầu tư kỹ thuật, họ chỉ quan tâm tới các chi tiết trong biểu đồ cổ
phiếu, đặc biệt là xu hướng tăng và xu hướng
giảm.
Các nhà đầu tư kỹ thuật
có trong tay hàng trăm công cụ dự đoán kỹ thuật trợ giúp họ xác định thời điểm
bắt đầu xu hướng tăng và thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng các công
cụ hay phương pháp trợ giúp chính. Quyết định lựa chọn công cụ nào phụ thuộc
vào việc họ là nhà đầu tư kỹ thuật ngắn hạn hay dài hạn. Các nhà đầu tư kỹ thuật
ngắn hạn thường sử dụng những công cụ đưa ra dấu hiệu mua vào và bán ra trong
ngắn hạn. Ngược lại, các nhà đầu tư dài hạn chỉ quan tâm tới khả năng biến động
có cơ sở trong xu hướng dài hạn.
Nhà đầu tư kỹ thuật cũng
sử dụng biểu đồ và tìm kiếm cổ phiếu có xu hướng đảo chiều dương hoặc âm giống
như nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Điểm khác biệt là, nhà đầu tư theo đà tăng
trưởng thường vẽ biểu đồ phân tích dựa trên lợi nhuận tăng tốc bên trong, còn
nhà đầu tư kỹ thuật lại hiềm kỵ với cách thức tìm kiếm này. Họ tin rằng, bằng
cách “đọc“ các biểu đồ cổ phiếu, họ có thể nắm bắt chính xác tất cả các xu hướng
biến động, cho dù xu hướng đó bắt nguồn từ nguyên nhân nào. Họ có thể nắm giữ một
cổ phiếu chưa đầy một tuần với mục đích đơn giản là nắm bắt xu hướng mới và họ
sẽ thoát khỏi thị trường khi các công cụ kỹ thuật thông báo xu hướng hiện tại sắp
kết thúc.
NGHỆ THUẬT ĐẦU TƯ KỸ THUẬT
Mặc dù có sử dụng phương
pháp kỹ thuật để xác định các dấu hiệu gia nhập và rút lui khỏi thị trường,
nhưng đầu tư kỹ thuật không phải là một phong cách máy móc. Đọc biểu đồ cũng là
một nghệ thuật và một số nhà đầu tư kỹ thuật có khả năng đọc biểu đồ rất tốt.
Nghệ thuật đọc biểu đồ
chính là nghệ thuật nhận thức mô hình. Tất nhiên, không phải tất cả biểu đồ cổ
phiếu đều giống nhau. Không có dấu hiệu báo động nào khi thông tin trên biểu đồ
trùng khớp với đồ thị nào đó. Bạn buộc phải có khả năng nhận ra những thông tin
khác biệt và biết đâu là những thông tin tạo nên một mô hình đồ thị cho kết quả
là xu hướng tăng hoặc giảm. Mô hình không khuyên bạn gia nhập thị trường ngay
mà khuyên bạn sẵn sàng để gia nhập thị
trường. Điều này cũng giống như người thợ săn đang vác súng trong rừng và luôn
sẵn sàng bắn. Khi anh ta nghe thấy tiếng động của lá rừng hay nhìn thấy chuyển
động của một con hươu, anh ta giữ cò và sẵn sàng bắn. Nhưng anh ta sẽ đợi cho tới
khi thấy rõ mục tiêu mới bóp cò. Khi nhà đầu tư kỹ thuật thấy một mô hình đồ thị
cụ thể, anh ta sẽ theo dõi sát sao từng biến động của cổ phiếu và nếu tình huống
X xảy ra – tức là nếu chú hươu xuất hiện rõ ràng – đó chính là thời điểm thích
hợp để bóp cò súng.
Nhà đầu tư kỹ thuật tìm
kiếm các mô hình thường cho kết quả là một dấu hiệu mua hoặc bán. Martin Pring,
tác giả của cuốn Technical Analysis Explained, gọi điều này là “bằng chứng rõ
ràng”. Khi có bằng chứng rõ ràng cho thấy một xu hướng tăng hoặc giảm mới đang
tới gần hoặc đã bắt đầu, đó chính là lúc cần “bóp cò”. Bạn càng thu thập được
nhiều bằng chứng, bạn càng sẵn sàng hành động hơn trước một dấu hiệu cụ thể nào
đó. Tính chính xác của mô hình và việc bóp cò đúng lúc phụ thuộc vào phương
pháp hoặc công cụ kỹ thuật bạn đang sử dụng. Ví dụ, nếu bạn sử dụng đường MACD,
bạn sẽ không mua cho đến khi xuất hiện một điểm vượt hẳn lên trên đường này. Nếu
bạn thích sử dụng dải biên Bollinger , bạn phải luôn sẵn sàng hành động ngay
khi các dải quấn vào nhau (dấu hiệu cho thấy sự thay đổi tiếp theo rất quan trọng).
Tuy nhiên, luôn nhớ phải đợi cho đến khi thay đổi thực tế diễn ra mới bắt đầu
“bóp cò”.
Đây chính là nghệ thuật
phân tích kỹ thuật và chỉ sau khi bạn học cách đọc thông tin từ những công cụ dự
báo mà bạn đang sử dụng, bạn mới có thể dựa vào những dấu hiệu gia nhập và
thoát khỏi thị trường của công cụ đó.
BIỂU ĐỒ PQ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KỸ THUẬT
Hai đặc điểm tuyệt đối
không thể thiếu đối với một nhà đầu tư kỹ thuật là tính kỷ luật và kỹ năng đọc
biểu đồ. Chúng tôi chấm điểm 10 cho cả hai đặc điểm cần thiết này trong biểu đồ
PQ (Biểu đồ 7.1). Biểu đồ mang tên một trò chơi kỹ thuật, vì vậy bạn cần biết
cách đọc và phát hiện ra các mô hình cụ thể mà bạn quan tâm. Bạn cần có tính kỷ
luật cao như khi đầu tư theo đà tăng trưởng. Giống như nhà đầu tư theo đà tăng
trưởng, chuyên gia đầu tư kỹ thuật cần hành động nhanh chóng và quyết đoán trước
các dấu hiệu gia nhập và thoát khỏi thị trường. Đầu tư kỹ thuật là phương thức
đầu tư yêu cầu phải hành động thật mau lẹ.
Về cam kết thời gian, bạn
cần phân biệt giữa thời gian cần thiết để học cách phân tích kỹ thuật – khoảng
thời gian lớn – và thời gian cần thiết mà một biểu đồ gia kinh nghiệm cần có để
tìm ra những cổ phiếu sáng giá từ một biểu đồ đầy rẫy các con số. Trong khoảng thời
gian cần có để phân tích một bảng kê tài chính, chuyên gia biểu đồ có thể cùng
lúc nghiên cứu khoảng 50 biểu đồ cổ phiếu và tìm ra hai hoặc ba biểu đồ đáng
xem xét thêm. Nhưng khi bạn đã đọc biểu đồ thành thạo, việc lựa chọn cổ phiếu
diễn ra rất nhanh chóng. Do cần có thời gian học tập và yêu cầu kiểm soát sự
thay đổi theo xu hướng của cổ phiếu, nên thời gian cần cho nhà đầu tư kỹ thuật
phải trên mức trung bình. Chúng tôi cho đặc điểm này điểm 8 trên biểu đồ PQ.
Thời gian mà nhà đầu tư cần
đợi để thu về kết quả từ một vụ đầu tư kỹ thuật tương đối ngắn so với các chiến
lược đầu tư khác. Nhà đầu tư kỹ thuật ngắn hạn nắm giữ cổ phiếu chưa đầy một
ngày, một tuần hoặc hơn thế. Còn nhà đầu tư kỹ thuật dài hạn giữ cổ phiếu trong
một tháng hoặc lâu hơn. Vì vậy, trong biểu đồ PQ, chúng ta chấm cho điều kiện về
thời gian điểm 3.
Sự kiên nhẫn thường được
“đo” tương đối với đường thời gian – thời gian mà tiền của bạn bị kẹt trong vụ
đầu tư. Nhưng đối với các nhà đầu tư kỹ thuật, tính kiên nhẫn lại được đánh giá
hơi khác một chút. Đường thời gian của bạn có thể tương đối ngắn khi so sánh với
mức tăng trưởng hay giá trị đầu tư, nhưng bạn sẽ phải kiên nhẫn chờ đợi các mô
hình kỹ thuật phát triển và phát tín hiệu gia nhập hay thoát khỏi thị trường. Bạn
cũng sẽ cần kiên nhẫn trong suốt quá trình học cách nghiên cứu biểu đồ và sử dụng
các công cụ kiểm tra lại để xác định xem nên tin tưởng vào phương pháp hay công
cụ nào. Khi bạn đã sử dụng thành thạo phương pháp của mình và đầu tư kỹ thuật
chỉ theo trí nhớ – tức là bạn chỉ cần học thuộc lòng – nhưng bạn vẫn cần kiên
nhẫn chờ đợi mô hình tiến triển theo thời gian.
Do các nhà đầu tư kỹ thuật
chuyên nghiệp chỉ quan tâm đến biểu đồ nên họ không cần hoặc chỉ cần một chút kỹ
năng định lượng. Họ thường không đọc các báo cáo tài chính hay so sánh các số
liệu hoặc tỷ lệ để xem cổ phiếu nào có giá trị tốt hơn. Họ không thích phải
phán đoán. Nếu công cụ dự báo kỹ thuật của họ thông báo “hãy gia nhập thị trường”,
họ sẽ mua cổ phiếu; còn nếu nó thông báo “hãy thoát khỏi thị trường”, họ sẽ bán
cổ phiếu.
Không cần đưa thêm bất kỳ
phán đoán nào về giá trị của một vụ đầu tư có nghĩa là sự tự tin khi đầu tư được
chấm điểm cao trong biểu đồ PQ. Các nhà đầu tư kỹ thuật phải rất tin tưởng vào
công cụ kỹ thuật họ sử dụng cũng như khả năng nắm bắt mẫu biểu đồ tốt nhất và
kém nhất của mình. Việc luyện tập bất kỳ một môn nghệ thuật nào luôn đòi hỏi bạn
phải tin tưởng vào kỹ năng và tài năng của bạn, vì vậy chúng ta chấm cho sự tự
tin đầu tư điểm 8.
Điều thú vị là, đầu tư kỹ
thuật có mức độ rủi ro thấp và kết quả đạt được không quá quan trọng. Các nhà đầu
tư kỹ thuật cũng mong muốn có được kết quả tốt đẹp (nếu không họ sẽ không dành
thời gian để học tập phương pháp đầu tư này). Tuy nhiên, họ tin rằng mình đang
đối mặt với rủi ro ở mức rất thấp, bởi họ luôn tận dụng tối đa các công cụ theo
dõi xu hướng. Điều này có thể có hoặc không xuất hiện trong thực tế. Theo quan
điểm của chúng tôi, các nhà đầu tư mua cổ phiếu của một công ty mà họ không nắm
rõ sẽ có nguy cơ rủi ro cao hơn. Xét trên tất cả các khía cạnh, đầu tư kỹ thuật
đòi hỏi khả năng chịu đựng rủi ro và biến động ở mức trung bình, bởi các nhà đầu
tư kỹ thuật thường dựa trên các công cụ kỹ thuật khi quyết định bán hết cổ phiếu
trước khi giá giảm mạnh.
PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU KỸ THUẬT
Rất nhiều lý thuyết kỹ
thuật được hình thành nhằm giải thích sự biến động của giá cổ phiếu và hàng
trăm công cụ dự báo kỹ thuật được hình thành từ các lý thuyết này nhằm mục đích
dự đoán tình trạng biến động đó. Kết quả là, chúng ta không thể sử dụng một lý
thuyết kỹ thuật đơn lẻ để giải mã “kết cấu” của một cổ phiếu kỹ thuật điển
hình. Trên thực tế, không hề có bất kỳ một cổ phiếu kỹ thuật nào tồn tại. Thay
vào đó, chúng ta sẽ bàn về tâm lý học đằng sau sự biến động của giá cả và số lượng
của cổ phiếu và cách thức tâm lý đó tạo ra những khoảng đồ thị khác nhau trên
biểu đồ. Thông qua các lý thuyết kỹ thuật này, các nhà phân tích cố gắng hiểu
thuyết tâm lý học và nắm bắt các dấu hiệu dựa trên hành vi giá cả và số lượng để
gia nhập hay thoát khỏi một cổ phiếu.
Tâm lý học đằng sau biểu đồ cổ phiếu
Chúng tôi sẽ sử dụng một
tình huống đơn giản để minh họa cho tâm lý ẩn sau các biểu đồ cổ phiếu và đưa
ra một lời khuyên hữu ích về cách thức “đọc” biểu đồ của một nhà đầu tư kỹ thuật.
Hãy tưởng tượng, cổ phiếu
của công ty ABC gần như đang ở mức cân bằng. Trong nhiều tuần liên tiếp, cổ phiếu
ABC được giao dịch ở mức giá nằm trong khoảng 19-20 đô la và lượng giao dịch
trong ngày là 100 nghìn cổ phiếu. Một cổ phiếu được giao dịch trong một phạm vi
hẹp như vậy là bằng chứng cho thấy số lượng nhà đầu tư muốn sở hữu cổ phiếu đó
xấp xỉ bằng số lượng nhà đầu tư muốn bán nó đi. Vì vậy, bất cứ khi nào có lệnh
mua khoảng 100, 500 hoặc 1.000 cổ phiếu, sẽ có ai đó sẵn sàng bán ra một số phiếu
tương tự, giá cổ phiếu đứng yên và chỉ di động trong phạm vi nhỏ hẹp mà chúng
ta gọi là mức đáy.
Bây giờ, chúng ta hãy giả
định rằng trong quý vừa qua, cổ phiếu của công ty ABC đang biến động theo chiều
hướng rất tốt trên thị trường phố Wall. Khi nghe thấy tin đồn này, sẽ có thêm
ít nhất một vài nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu đó và những người hiện đang sở hữu
nó cũng muốn mua thêm. Do đó, khối lượng mua cổ phiếu tăng lên. Số lượng mua
trung bình mỗi ngày trước đó là 100 nghìn, có thể tăng lên 125 nghìn trong một
vài ngày tiếp theo. Mặc dù số lượng tăng, nhưng trong bối cảnh này, giá cổ phiếu
có thể không biến động cho tới khi tình trạng giao dịch bình thường trở lại.
Cũng như vậy, khi một cổ phiếu đang ở mức đáy, người ta sẽ tập trung mua vào
nhiều và cuối cùng, khối lượng mua tăng sẽ đẩy khối lượng mua và bán ra khỏi điểm
cân bằng.
Lúc này, những nhà đầu tư
trước đây muốn bán cổ phiếu có thể có cái nhìn khác đi. Hoạt động mua cổ phiếu
gia tăng có thể khiến họ quyết định nắm giữ cổ phiếu. Kết quả là, khối lượng
bán ra có thể ít đi trong khi khối lượng mua tiếp tục tăng, làm nảy sinh vấn đề
giữa cung và cầu. Khi cung giảm và cầu tăng, giá cổ phiếu sẽ tăng. Khi nhà đầu
tư tiếp tục mua, giá cổ phiếu sẽ ngày một tăng cao hơn cho đến khi cổ phiếu vượt
ra khỏi mức đáy. Đây là mô hình mà các nhà đầu tư kỹ thuật mong muốn tìm kiếm:
cổ phiếu đảo chiều khi khối lượng giao dịch tăng.
Tình huống đơn giản này
cho thấy, khối lượng giao dịch thường tác động đến giá cả. Khối lượng giao dịch
tăng ngay khi tình huống nảy sinh, nhưng giá cổ phiếu lại không tăng ngay lập tức.
Nó chỉ diễn ra khi cung giảm, dẫn tới việc cổ phiếu phá vỡ mức đáy. Khi điều
này xảy ra, nhà đầu tư theo đà tăng trưởng nào có khả năng nhìn thấy sự “chuyển
động” của cổ phiếu sẽ “nhảy vào” ngay. Những nhà đầu tư thường đưa ra quyết định
dựa trên nền tảng của một công ty chắc chắn cũng nhảy vào, bởi họ nhận thấy khả
năng thu được lợi nhuận là rất lớn. Dưới đây là diễn biến của tình huống này.
Hãy giả sử rằng, sau khi
phá vỡ mức đáy, ABC đưa ra thông báo xác nhận rằng công ty đang có một quý hoạt
động thật sự tốt, có thể đáp ứng mong đợi của các nhà đầu tư và thậm chí, còn
có khả năng tăng doanh thu thêm 20%. Những nhà đầu tư theo đà tăng trưởng đang
không mấy quan tâm tới cổ phiếu này, khi thấy sự đảo chiều và tăng tốc bắt đầu
diễn ra, sẽ lập tức nhảy vào. Còn các nhà đầu tư khác đưa ra quyết định dựa
trên triển vọng lợi nhuận tương lai của một công ty chắc chắn sẽ lưu tâm tới
nó. Có lẽ họ đã thấy mức đáy bị phá vỡ, nhưng quan trọng hơn là, các bản báo
cáo lợi nhuận đều cho thấy cổ phiếu đã chuyển động và giá cổ phiếu có thể đạt mức
24 đô la. Kết quả là, khối lượng mua cổ phiếu để kiếm lời càng tăng thêm, khiến
giá cổ phiếu tăng lên 22 đô la. Chính sự tham giam của những nhà đầu tư tăng
trưởng và những nhà đầu tư mua vì lợi nhuận trước mắt đã đẩy sức mua và khối lượng
giao dịch tăng cao.
Sau đó, một số nhà đầu tư
vốn hài lòng khi bán tại mức giá 19 đô la hay 20 đô la bắt đầu ngừng bán. Dù có
nghe được tin đồn hay không, họ vẫn thấy rằng cổ phiếu đang đi lên theo hướng
tăng khối lượng giao dịch và họ sẽ tự nhủ “Hãy đợi thêm, mình nên tiếp tục giữ
cổ phiếu này” và làm đúng như vậy. Vì thế, số lượng người mua tiếp tục vượt số
lượng người bán và giá tiếp tục leo thang.
Đó là những mô hình mà
nhà đầu tư kỹ thuật có thể thấy được ở một biểu đồ cổ phiếu. Họ không cần biết
bất cứ điều gì về giá trị nền tảng bên trong của công ty hay ai là người mua cổ
phiếu hoặc tại sao lại như vậy. Cổ phiếu di chuyển ra khỏi mức đáy chính là tín
hiệu mua vào đối với nhà đầu tư kỹ thuật. Hãy luôn ghi nhớ rằng, vì mục đích
chính của ví dụ này, chúng ta sẽ giả định là không có điều gì bất thường xảy ra
trên thị trường; hành vi của công ty ABC không liên quan tới bất kỳ hành động
nào trên thị trường và chỉ duy nhất ABC mới có hành vi đó.
Lúc này, khi giá tiếp tục
tăng cao vì khối lượng giao dịch gia tăng, các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
và các nhà đầu tư kỹ thuật sẽ tiếp tục mua vào. Nhưng khi giá đạt tới một mức
nào đó, ví dụ như 25 đô la, tình huống sẽ thay đổi. Những người mua dựa trên lợi
nhuận – tức là những người đưa ra quyết định mua dựa trên thông tin về lợi nhuận
– vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phiếu và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra, nhưng họ ngừng
mua thêm vì giá cổ phiếu thể hiện dấu hiệu lợi nhuận đã tăng kịch trần. Việc dừng
mua dựa trên lợi nhuận khiến khối lượng giao dịch bắt đầu giảm, nhưng do các
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng và các nhà đầu tư kỹ thuật vẫn mua vào, nên giá
cổ phiếu chưa có dấu hiệu dừng tăng. Tại điểm này, một số nhà đầu tư kỹ thuật
có thể phát hiện ra mô hình này (giá cổ phiếu tiếp tục tăng trên khối lượng
giao dịch đang giảm dần) và lo lắng, bởi mô hình đó không phải là một mô hình tốt.
Đây là mô hình đỉnh và theo sau là sự di chuyển tụt lùi. Nhà phân tích kỹ thuật
nào sớm phát hiện ra điều này thường dừng lại, khiến khối lượng giao dịch giảm
mạnh hơn.
Nói cách khác, khi cổ phiếu
đã lên tới mức 25 đô la, khối lượng giao dịch có thể tiếp tục tăng và giá cổ
phiếu có thể bắt đầu ổn định. Không có cách nào để biết điều gì đang thật sự xảy
ra và tình trạng gia tăng khối lượng xuất phát từ đâu. Nguyên nhân có thể là từ
các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng – những người vẫn rất vui mừng về tình hình
cổ phiếu và tiếp tục mua vào hoặc cũng có thể là do các nhà đầu tư dựa trên lợi
nhuận – những người vẫn tin rằng cổ phiếu đang vượt quá giá trị và bắt đầu bán.
Khối lượng giao dịch là khối lượng mua vào và bán ra, chúng ta rất khó phân biệt
hai phạm trù này. Song, cho dù xuất phát từ nguyên nhân nào đi chăng nữa, thì
thực tế vẫn là khối lượng giao dịch tăng và cổ phiếu vẫn đứng nguyên tại chỗ.
Nó đã hết năng lượng. Vì vậy, cổ phiếu của công ty ABC sẽ dừng lại ở mức ổn định,
giữa mức giá 25 và 26 đô la.
Khối lượng mua vào so với khối lượng bán ra
Một số dịch vụ cung cấp
các công cụ dự báo nhằm chỉ ra phần trăm khác biệt giữa khối lượng mua vào và
khối lượng bán ra trong một ngày cụ thể. Nhìn chung, các công cụ dự báo này thường
coi khối lượng mua vào được giao dịch ở mức giá cao hơn và khối lượng bán ra được
giao dịch ở mức giá thấp hơn.
Đối với các nhà đầu tư kỹ
thuật, khối lượng giao dịch tăng và giá cổ phiếu không biến động là một dấu hiệu
bán điển hình. Vì vậy, họ bắt đầu bán cổ phiếu. Nhưng giá cổ phiếu ABC có thể
không giảm ngay lập tức, bởi vẫn còn người mua vào. Các nhà đầu tư theo đà tăng
trưởng, những người thường đi quá đà xu hướng, tiếp tục mua thêm và công chúng
nói chung, những người có thể nghe được tin doanh thu của ABC sẽ tăng 20% từ bạn
bè hay từ một học giả nào đó trên truyền hình, cũng sẽ hào hứng nhảy vào.
Vậy hãy thử đoán xem điều
gì sẽ xảy ra nếu giá cổ phiếu ABC tiếp tục tăng vượt qua mức 25-26 đô la, tiến
tới 28 đô la chẳng hạn? Khi đó, khối lượng giao dịch sẽ bắt đầu giảm.
Hầu hết quyết định mua dựa
trên lợi nhuận đều giảm khi cổ phiếu đứng ở mức giá 28 đô la, bởi ở mức giá
này, đối với một số nhà đầu tư, cổ phiếu đang trong tình trạng vượt quá giá trị
thực của nó. Họ cho rằng mức giá 24 đô la là hợp lý, nhưng nếu mức giá là 28 đô
la, họ sẽ chờ đợi và xem điều gì xảy ra vào thời điểm giá cổ phiếu đạt mức 28
đô la hoặc cao hơn.
Phần lớn, nếu không muốn
nói là tất cả các nhà đầu tư kỹ thuật, đều hết sức vui mừng vì lúc này, giá cổ
phiếu dừng lại trong khi khối lượng cổ phiếu giao dịch tăng. Tại điểm này, các
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng cũng có thể quyết định kiếm lợi nhuận. Kết quả
là, giá cổ phiếu lại giảm và nhu cầu mua giảm dần, dẫn đến khối lượng giao dịch
cũng giảm theo.
Khi xu hướng đảo ngược lại,
các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng và các nhà đầu tư kỹ thuật sẽ ra khỏi thị
trường. Giá cổ phiếu giảm dần xuống mức 24 đô la hoặc thấp hơn.
Nhưng ai mong đợi giá cổ
phiếu dừng lại ở mức 24 đô la? Đó chính là những người mua dựa trên lợi nhuận.
Khi họ bắt đầu mua lại, giá cổ phiếu chắc chắn sẽ ở mức ổn định xấp xỉ 24 đô
la. Tuy vậy, quyết định mua dựa trên lợi nhuận sẽ đẩy giá cổ phiếu lên cao ở mức
26 đô la hoặc thậm chí là hơn và tình huống tương tự sẽ lại diễn ra một lần nữa.
Điểm cốt lõi của bài học
đơn giản này là những yếu tố có thể tạo nên các đường đồ thị và xu hướng mà nhà
đầu tư kỹ thuật nhìn thấy trên một biểu đồ cổ phiếu (Do đó, có thể hiểu tại sao
bạn không muốn là người cuối cùng gia nhập hoặc người cuối cùng rút lui). Tất cả
các động thái này đều dễ hiểu đối với một chuyên gia biểu đồ: khối lượng giao dịch
tăng khi giá cổ phiếu không biến động; khi khối lượng giao dịch biến động, giá
cổ phiếu tăng theo khối lượng giao dịch tăng, giá cổ phiếu giảm khi khối lượng
giao dịch giảm dần. Tất cả các biến động này đều tạo nên những mô hình có thể
giúp nhà đầu tư kỹ thuật dự báo đợt biến động tiếp theo của cổ phiếu. Một
chuyên gia đọc biểu đồ giỏi có thể dự đoán mức tăng giảm 4-5 đô la cho một cổ
phiếu chỉ trong vài tuần mà không cần biết bất kỳ thông tin nào về công ty phát
hành cổ phiếu đó.
Chúng tôi cố gắng không
biến bạn thành một nhà đầu tư kỹ thuật, chính bản thân chúng tôi cũng không phải
là những nhà đầu tư kỹ thuật chuyên nghiệp, nhưng chúng tôi cố gắng chứng minh
rằng mô hình biều đồ là “hiện thân” của tâm lý học đằng sau quyết định mua và
bán cổ phiếu. Nhờ có khả năng “đọc” tâm lý của mô hình, nên các nhà đầu tư kỹ
thuật có thể thấy được sự khởi đầu và kết thúc của một đợt giảm giá mạnh trước
khi các nhà đầu tư khác nhận ra.
Cần nhớ rằng, tình huống
chúng ta đưa ra là dựa trên những nền tảng vững chắc bên trong. Không phải tất
cả các cổ phiếu đều biến động theo hướng đó. Đôi khi, nguyên nhân dẫn tới xu hướng
tăng hay rớt giá mạnh là do một tin đồn không có căn cứ, một sai sót của nhà
phân tích đầu tư, câu chuyện phiếm của hội đồng quản trị hay lời tuyên bố quá
nhiệt tình của một học giả trên truyền hình. Sẽ rủi ro hơn rất nhiều nếu bạn
mua cổ phiếu của một công ty không có nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, các nhà đầu
tư kỹ thuật chuyên nghiệp cho rằng nền tảng bên trong của một doanh nhgiệp
không có ý nghĩa gì, bởi với biểu đồ, họ có thể tìm ra những dấu hiệu “làm lộ tẩy”
xu hướng đảo ngược.
Nếu khái niệm đầu tư kỹ
thuật khiến bạn quan tâm, bạn cần dành nhiều thời gian nghiên cứu chủ đề này.
Có hàng trăm công cụ có thể trợ giúp cho nhà đầu tư kỹ thuật đọc biểu đồ. Chúng
tôi gợi ý bạn đọc nên đọc cuốn The Encyclopedia of Technical Market Indicators
của tác giả Robert. W. Colby và Thomas A. Meyers. Để tìm thêm các cuốn sách viết
về đầu tư kỹ thuật, bạn có thể vào trang www.traderlibrary.com. Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về tâm lý học
đầu tư, chúng tôi đặc biệt khuyên bạn nên đọc cuốn Remniscences of Stock
Operator của tác giả Edwin LeFerve. Cuốn sách viết về câu chuyện của một nhà đầu
tư cổ phiếu huyền thoại và mang đến một cái nhìn chi tiết hơn về tâm lý thị trường.
Khi nào một cổ phiếu không phải là “ứng cử viên” cho
chiến lược đầu tư kỹ thuật?
Không phải tất cả các cổ
phiếu đều là “ứng cử viên” sáng giá cho chiến lược đầu tư kỹ thuật. Một biểu đồ
cổ phiếu cần phải thường xuyên cho thấy các dấu hiệu cụ thể. Nếu đồ thị của một
cổ phiếu thay đổi thường xuyên đến mức chúng ta không thể xác định được diễn biến
cụ thể tiếp theo của nó, thì sẽ thật vô ích nếu tiếp tục phát triển biểu đồ đó.
Điều đó cũng chứng tỏ rằng cổ phiếu đó không thích hợp với phương pháp đầu tư kỹ
thuật. Bạn cần phải tự đặt ra các câu hỏi như: Trước đây, biểu đồ cổ phiếu này
có giúp bạn dự đoán xu hướng hay không? Trước đây, các dấu hiệu đó có đi theo
đúng xu hướng hay không? Nếu câu trả lời là có, thì trong tương lai, biểu đồ cổ
phiếu có thể mang lại lợi ích tương tự: giúp bạn dự đoán xu hướng và đi theo
đúng xu hướng đó.
Biểu đồ 7.2 cho thấy cổ
phiếu được biểu diễn là “ứng cử viên sáng giá” cho chiến lược đầu tư kỹ thuật,
bởi nó cho thấy các xu hướng tăng rất rõ ràng trong năm qua. Nhờ thế, chúng ta
có thể yên tâm giả định rằng những mô hình tương tự sẽ tiếp tục xuất hiện. Từ
tháng 12 đến tháng 7, cổ phiếu lên được 36 điểm. Nó đạt được kết quả này bằng
xu hướng tăng, rồi lại lùi lại, trở về vị trí cũ và tạo ra một vài cơ hội giao
dịch cho các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Trong tháng 8, xu hướng giảm xuất
hiện nhưng biểu đồ vẫn cho thấy những dấu hiệu sẽ tăng trở lại.
Bây giờ, hãy nhìn vào biểu
đồ cổ phiếu của công ty Kellogg (Biểu đồ 7.3). Trong suốt giai đoạn từ tháng
10/2000 đến tháng 9/2001, cổ phiếu Kellogg là một thách thức đối với các nhà đầu
tư kỹ thuật, bởi các mô hình đồ thị trên biểu đồ không biểu thị rõ ràng các xu
hướng. Bạn có thể có 4 điểm nếu mua cổ phiếu và giữ nó trong suốt thời gian từ
tháng 8/2000, nhưng các nhà đầu tư kỹ thuật thường mong đợi những khoản lợi nhuận
cao hơn trong thời gian ngắn hơn. Họ biết rằng có nhiều cổ phiếu có mô hình kỹ
thuật tốt nên không thể lãng phí thời gian cố gắng thực hiện các giao dịch kỹ
thuật trên loại cổ phiếu mua và giữ.
QUY TRÌNH ĐẦU TƯ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KỸ THUẬT
Như các phương pháp đầu
tư khác, đầu tư kỹ thuật cũng có ba bước đầu tư. Chiến lược lựa chọn cổ phiếu:
Sử dụng bộ lọc kỹ thuật
Các chuyên gia đầu tư kỹ
thuật sử dụng bộ lọc kỹ thuật để tìm kiếm cổ phiếu. Nói chung, họ thường tìm kiếm
loại cổ phiếu có giá tăng mạnh do khối lượng giao dịch tăng. Tình trạng tăng
này có thể vượt ra ngoài mức đáy, MACD hoặc vượt trị giá trung bình của 50 ngày
chuyển vận. Điểm mấu chốt là phân tích kỹ thuật cho tới khi bạn tìm thấy các dấu
hiệu dự báo cần thiết, sau đó phát triển bộ lọc xung quanh các dấu hiệu đó.
Một số nhà đầu tư kỹ thuật
tìm kiếm cổ phiếu có nhiều thành tích tốt trong quá khứ. Trong khi đó, các nhà
phân tích khác lại kết hợp phong cách đầu tư kỹ thuật với các phong cách khác,
như phương pháp đầu tư từ trên xuống hay đầu tư tăng trưởng (lựa chọn cổ phiếu
theo đặc điểm tăng trưởng của chúng hoặc kết quả hoạt động của cả ngành công
nghiệp, sau đó áp dụng bộ lọc kỹ thuật để lựa chọn tiếp). Chúng ta sẽ bàn kỹ
hơn về vấn đền này khi nói về phong cách đầu tư tổng hợp trong Chương 9.
Các biến số quan trọng khi sử dụng bộ sàng lọc kỹ thuật
Sử dụng bộ sàng lọc kỹ
thuật, nghĩa là bạn đang tìm kiếm sự gia tăng khối lượng giao dịch kết hợp với
một biến động gây ra tình trạng đảo chiều của một số dấu hiệu dự báo. Bạn cần dựa
vào hai tiêu chí quan trọng sau:
•
Sự
đảo chiều của các dấu hiệu kỹ thuật: Sử dụng tiêu chí này dựa trên các công cụ
chỉ báo như sự bùng nổ MACD hoặc sự
phá vỡ giai đoạn đáy;
•
Chỉ
báo khối lượng: Tỷ lệ khối lượng hôm nay trên khối lượng trung bình trong 30
ngày hay 90 ngày và tỷ lệ khối lượng trung bình trong năm ngày gần đây nhất
trên khối lượng trung bình trong 90 ngày sẽ giúp bạn tìm được cổ phiếu có khối
lượng giao dịch gia tăng bất thường.
Chiến lược gia nhập/rút khỏi thị trường: Bước theo nhịp
chân của bạn nhảy
Những dấu hiệu gia nhập
và rút khỏi thị trường của bạn phụ thuộc vào những mô hình bạn thường dựa vào để
lựa chọn cổ phiếu. Ví dụ, nếu bạn tìm kiếm cổ phiếu có đồ thị ở mức đáy, dấu hiệu
gia nhập thị trường sẽ là sự phá vỡ khoảng này. Nếu bạn tìm kiếm cổ phiếu với
đường MACD mong muốn, dấu hiệu mua vào là khi đường MACD đảo chiều dương. Nếu bạn
thích mua cổ phiếu đã được kiểm tra và có tiềm năng, bạn sẽ phải tìm kiếm những
cổ phiếu đảo chiều có tiềm năng.
Để bán cổ phiếu, nhiều
nhà đầu tư kỹ thuật sử dụng dấu hiệu đảo chiều của cùng một công cụ dự báo khi
gia nhập thị trường. Ví dụ, nếu bạn mua dựa trên mô hình bùng nổ MACD dương, bạn
có thể bán cổ phiếu khi xuất hiện mô hình bùng nổ MACD âm. Nếu bạn sử dụng một
cú đảo chiều từ một điểm nào đó để mua cổ phiếu, bạn có thể bán nếu cổ phiếu xuống
dưới mức đó. Nhiều nhà đầu tư kỹ thuật sử dụng điểm phá vỡ theo xu hướng như một
dấu hiệu bán, với yêu cầu phải quan sát biểu đồ cổ phiếu. Phương pháp càng phức
tạp, những dấu hiệu mua và bán được đưa ra càng chính xác hơn.
Chiến lược quản lý danh mục đầu tư dành cho nhà đầu tư
kỹ thuật
Nói chung, đầu tư kỹ thuật
yêu cầu phải quản lý danh mục đầu tư rất chặt chẽ. Bạn phải nghiên cứu nhiều biểu
đồ để tìm kiếm cổ phiếu có mô hình kỹ thuật phù hợp và sau đó điều chỉnh các cổ
phiếu này theo dấu hiệu gia nhập thị trường thích hợp. Khi mua một cổ phiếu, bạn
phải luôn luôn tỉnh táo trước thay đổi trong xu hướng kỹ thuật, nghĩa là bạn phải
điều chỉnh danh mục đầu tư cho phù hợp.
Kết quả là, các nhà đầu
tư kỹ thuật không nắm giữ quá nhiều cổ phiếu vào cùng một thời điểm. Điều này
có nghĩa là, danh mục đầu tư của họ không đa dạng như danh mục của các nhà đầu
tư tăng trưởng hay giá trị và thậm chí, còn kém đa dạng hơn cả danh mục của các
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Một danh mục gồm 5-8 cổ phiếu là bình thường. Số
lượng cổ phiếu phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian bạn có thể dành cho cổ phiếu
và sở thích cá nhân của bạn. Như đã đề cập ở phần trên, một số nhà đầu tư kỹ
thuật chỉ tìm được số ít các cổ phiếu tiềm năng thường xuyên cho thấy những mô
hình kỹ thuật tốt và họ chỉ giao dịch các cổ phiếu này.
Về tỷ lệ nắm giữ tiền mặt
và tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu, không hề có một quy tắc nào cho các nhà đầu tư kỹ
thuật. Chúng tôi chỉ gợi ý rằng, bạn không nên quá coi trọng hai yếu tố này. Nếu
bạn gặp rắc rối trong quá trình tìm kiếm các cổ phiếu có mô hình kỹ thuật tốt, hãy
giữ tiền mặt và đợi cho đến khi tìm thấy chúng. Các nhà đầu tư kỹ thuật đầu tư
cả trong ngắn hạn và dài hạn sẽ hiếm khi gặp phải tình trạng thiếu các “ứng cử
viên” kỹ thuật sáng giá.
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP:
CÔNG TY SẢN XUẤT CHẤT BÁN DẪN VITESSE (VTSS)
Mục đích của nghiên cứu
trường hợp này là tìm kiếm cổ phiếu có mô hình đồ thị tốt để đầu tư nhằm minh họa
cho quá trình lựa chọn đầu tư kỹ thuật.
Nền tảng cơ sở
Do một nhà đầu tư kỹ thuật
quan tâm rất ít hoặc không hề quan tâm tới nền tảng cơ sở của một công ty, nên
không hề có khâu đánh giá nào trong quy trình lựa chọn cổ phiếu VTSS, mà chỉ có
khâu nghiên cứu mô hình đồ thị của cổ phiếu. Tuy vậy, những ghi chép về nền tảng
cơ sở của cổ phiếu rất cần thiết. Cổ phiếu VTSS đã giảm 30 xu hồi tháng 11/1992
và tăng cao liên tục với giá 115,69 đô la hồi tháng 3/2000. Sau đó, cổ phiếu
này trải qua giai đoạn suy thoái giảm giá trị
xuống 6,75 đô la vào ngày 27/9. Biểu đồ trong dài hạn cho thấy cổ phiếu
trải qua ba giai đoạn đáy
với giá trị thấp trong suốt khoảng thời gian từ cuối năm 1997 đến năm 1998. Ba
giai đoạn này đều góp phần đẩy giá cổ phiếu VTSS lên cao hơn trong tương lai.
Ngày 25/10/2001, ngày phân tích, cổ phiếu tấp nập trở lại, giá đóng cửa cao hơn
68% so với mức giá hồi tháng 9.
Nghiên cứu biểu đồ
Đầu tháng 10/2001, đường
MACD của VTSS đảo chiều dương và nằm trong miền dương vào ngày phân tích (xem
Biểu đồ 7.4). Trong mô hình MACD hàng tuần, chỉ xuất hiện một vài đợt đảo chiều
dương. Chứng khoán đã đóng cửa với mức giá cao hơn trị giá 30 ngày chuyển vận
và phá vỡ xu hướng giảm kéo dài suốt ba tháng. Đường đồ thị của cổ phiếu cho thấy
mối quan hệ khăng khít giữa giá, khối lượng và khả năng tăng trưởng mạnh của cổ
phiếu. Trước đây, một ngưỡng ngắn hạn gần bằng mức hiện tại đã xuất hiện nhưng
được dự báo chỉ là hiện tượng nhất thời, chỉ cần toàn thị trường giữ được mức
tăng tốc hiện tại là có thể vượt qua được.
Kết luận: VTSS là lựa chọn kỹ thuật sáng suốt
Cổ phiếu VTSS đã đáp ứng
yêu cầu cơ bản cho một dấu hiệu mua kỹ thuật vào cuối tháng 10/2001. Xu hướng
giảm đã bị phá vỡ, cổ phiếu vượt trên trị giá trung bình 30 ngày chuyển vận.
Trong biểu đồ tuần, đã xuất hiện điểm đảo chiều MACD dương và MACD hàng ngày nằm
trong miền dương. Hơn thế nữa, mức kháng cự gần nhất là 15 đô la, cao hơn 30%
so với mức gia nhập thị trường trước đây. Nếu ngưỡng đó bị phá vỡ, cổ phiếu có
thể lên tới 40 đô la.
ÁP DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHO CÁC QUỸ
Không có bất kỳ quỹ tương
hỗ nào sở hữu danh mục đầu tư có cơ sở vững chắc trên biểu đồ kỹ thuật. Tuy vậy,
điều đó không có nghĩa là bạn không thể áp dụng phân tích kỹ thuật vào các quỹ
đầu tư tương hỗ. Mặc dù hầu hết các nhà đầu tư kỹ thuật đều tin rằng sẽ không
hiệu quả khi sử dụng biểu đồ với quỹ đầu tư tương hỗ, nhưng các quỹ cũng có những
xu hướng tương tự như cổ phiếu, thời điểm bắt đầu và kết thúc các xu hướng cũng
tương tự và có ít nhất một dịch vụ gửi thư báo chúng ta biết cũng đã sử dụng
phương pháp phân tích kỹ thuật trong giao dịch quỹ tương hỗ.
Nếu bạn thật sự muốn áp dụng
phân tích kỹ thuật vào quỹ, hãy tập trung vào quỹ ETF. Trong quỹ ETF, sự thay đổi
khối lượng giao dịch và giá cả không liên quan đến nhau, nhưng một mô hình đồ
thị vẫn là một mô hình đồ thị. Cả quỹ tương hỗ và quỹ ETF đều thể hiện xu hướng
tốt hơn xu hướng cổ phiếu, bởi vì quỹ là sự tích lũy của tất cả cổ phiếu trong
quỹ.
Quỹ ETF có thể có xu hướng
tốt và kéo dài trong dài hạn hơn quỹ tương hỗ do quỹ tương hỗ có hàng trăm loại
cổ phiếu ở nhiều ngành khác nhau, gần như không thể hiện dấu hiệu giao dịch rõ
ràng nào.
Tại sao trong quỹ ETF, khối lượng giao dịch lại không
liên quan tới giá giao dịch?
Do yếu tố tổ chức của quỹ
ETF nên khối lượng giao dịch và giá giao dịch về cơ bản không liên quan đến
nhau. Nhà tài trợ của quỹ ETF là Merrill Lynch, StreetTRACK Barclay và những
người khác đã đồng ý duy trì mức giá của quỹ ETF bằng với mức giá cổ phiếu cơ sở.
Vì vậy, số lượng giao dịch lớn bất thường sẽ không đẩy giá cổ phiếu lên (hoặc
kéo giá cổ phiếu xuống). Ví dụ, bạn có thể mua hoặc bán 1 triệu cổ phiếu của
công ty bán dẫn HOLDR mà không gây ảnh hưởng đến giá cổ phiếu cơ sở, bởi quỹ
ETF sở hữu hàng triệu cổ phiếu như vậy. Tương tự, nếu các cổ phiếu cơ sở bị rớt
giá, giá của HOLDR có thể giảm 10% và khối lượng giao dịch của nó sẽ bằng
không.
Tất nhiên, sự không
liên hệ giữa giá và số lượng giao dịch có thể thay đổi, ví dụ, khi hàng tỷ đô
la từ một nhà đầu tư có tổ chức đổ vào quỹ ETF nào đó. Trong trường hợp này,
khi các khách hàng của ETF mua các cổ phiếu cơ sở riêng rẽ, giá cổ phiếu cơ sở
có thể lên cao hơn kéo theo sự tăng giá của các quỹ ETF. Để hiểu rõ hơn về quỹ
ETF, hãy tham khảo phần Quỹ ETF trong Chương 4.
LỜI KHUYÊN ĐỂ ĐẦU TƯ KỸ THUẬT THÀNH CÔNG
1. Kiểm tra lại phương pháp: Phát triển
một loạt các quy tắc gia nhập/rút khỏi thị trường có tiến hành các bước kiểm
tra lại;
2. Nghiên cứu phương pháp: Nghiên cứu
phương pháp để hiểu cặn kẽ qua sách và biểu đồ. Tham dự các buổi hội thảo. Hãy
chắc chắn rằng phương pháp của bạn đáng tin cậy trước khi sử dụng;
3. Kỷ luật: Phẩm chất quan trọng nhất của
một nhà đầu tư kỹ thuật là phải tuân thủ kỷ luật tuyệt đối với một phương pháp.
Mua khi có tín hiệu mua;
4. bán khi có tín hiệu bán;
5. Đừng hợp lý hóa: Đôi khi một cổ phiếu
dao động ngược lại với điều bạn mong đợi và khi phương pháp của bạn đưa ra dấu
hiệu bán, bạn sẽ cố gắng hợp lý hóa bằng cách nắm giữ cổ phiếu. Đừng làm vậy! Hãy lắng nghe phương pháp của bạn;
6. Bám chặt các nguyên tắc: Hơn bất cứ
phương pháp nào, phương pháp phân tích kỹ thuật đòi hỏi bạn phải loại bỏ hoàn
toàn cảm tính ra khỏi quyết định đầu tư. Điều này cũng giải thích tại sao
phương pháp này có hệ số rủi ro tương đối thấp (tất nhiên, bạn phải có hệ thống
kiểm tra lại rõ ràng). Nhưng bạn phải bám chặt các nguyên tắc;
7. Hãy chắc chắn rằng phương pháp của bạn
phù hợp với điều kiện thị trường: Một số công cụ dự báo hoạt động tốt trong thị
trường giá lên nhưng lại không phù hợp với thị trường giá xuống. Trong khi đó, một số công cụ dự báo khác lại “tỏa
sáng” trong thị trường giá xuống nhưng đưa ra những dấu hiệu không mấy chắc chắn
trong thị trường giá lên. Một số nhà phân tích MACD sử dụng mô hình MACD trong
điều kiện thị trường giá lên và mô hình khác trong thị trường giá xuống. Hãy tỉnh
táo nhận thức rõ khi nào phương pháp của bạn phù hợp với điều kiện thị trường
hiện tại;
8. Không “ép” phong cách của bạn vào một
cổ phiếu: Các dấu hiệu kỹ thuật làm việc tốt nhất với những cổ phiếu có xu hướng
rõ ràng. Đừng cố gắng “ép” cổ phiếu này phải có dấu hiệu này trong khi không hề
có mô hình thích hợp. Hãy sử dụng bộ lọc kỹ thuật để tìm kiếm những cổ phiếu có
mô hình tốt;
9. Luôn quan sát các công cụ dự báo và
phương pháp mới: Các nhà đầu tư kỹ thuật luôn tạo ra những công cụ dự báo mới
và phương pháp mới. Để luôn theo kịp những công cụ dự báo mới nhất, hãy đọc tạp chí Stocks and Commodities và thường
xuyên ghé thăm các trang web chuyên viết về biểu đồ cổ phiếu;
10.
Nhanh
chóng chấp nhận thua lỗ: Ngay cả trong trường hợp bạn vừa mua cổ phiếu, nếu
công cụ dự báo đưa ra dấu hiệu rút khỏi thị trường, thì hãy chấp nhận nó. Công
cụ dự báo đang cố gắng “cảnh báo” rằng bạn đã mắc sai lầm! Bạn phải sẵn sàng nhận
sai và “uống thuốc” để chữa bệnh. Nếu bạn không làm như vậy, vấn đề sẽ ngày
càng nghiêm trọng hơn bởi trên thực tế, công cụ dự báo đã đưa ra dấu hiệu rút
khỏi thị trường. Nếu cứ tiếp tục ngồi chờ, bạn sẽ không nhận được bất kỳ kết quả
tốt đẹp nào. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư kỹ thuật cũng
như nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Hãy chấp nhận dấu hiệu rút khỏi thị trường
khi nó xảy ra và cố gắng để mức thua lỗ nhỏ
nhất.
CHƯƠNG 8. Sử dụng giá trị vốn hóa thị
trường như một chiến lược đầu tư
Giá trị vốn hóa thị trường
là một thuật ngữ thể hiện tổng giá trị mà thị trường đặt vào một công ty. Giá
trị vốn hóa thị trường được tính bằng cách nhân số lượng cổ phiếu đang lưu hành
với giá cổ phiếu. Ví dụ, nếu một công ty bán cổ phiếu ở mức giá 30 đô la/cổ phiếu
và có 10 triệu cổ phiếu lưu hành thì giá trị vốn hóa thị trường của công ty đó
là 300 triệu đô la.
Vậy tại sao bạn cần quan
tâm tới giá trị vốn hóa thị trường? Lý do thứ nhất có thể là vì bạn thích công
ty có giá trị vốn hóa này hơn những công ty có giá trị vốn hóa khác. Có một số
người thích những công ty có quy mô giá trị vốn hóa thị trường nhỏ với tiềm
năng tăng trưởng lớn. Nhưng một số khác lại thích những công ty có giá trị vốn
hóa thị trường lớn hơn vì chúng đã có thương hiệu và có tính ổn định cao. Nếu bạn
nhận thấy mình ưa thích mức giá trị vốn hóa này hơn những mức khác, hãy lưu ý
điều này bởi vì nó sẽ giúp bạn rút gọn danh mục cổ phiếu cần phân tích.
Một lý do khác đó là thị
trường có xu hướng ưu đãi cho một hoặc đôi khi là hai giá trị vốn hóa thị trường
tại những thời điểm khác nhau. Là một nhà đầu tư, bạn phải biết tận dụng “chủ
nghĩa thiên vị” này để giành ưu thế trên thị trường. Vì vậy, hãy nghiên cứu kỹ
hơn nguồn giá trị vốn hóa thị trường.
Việc phân nhóm cổ phiếu
theo giá trị vốn hóa thị trường bắt đầu diễn ra từ cách đây 40 năm. Lúc đầu, chỉ
có hai nhóm cổ phiếu chính: Nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn và
nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ. Đến năm 1971, Hiệp hội Quốc
gia về Giao dịch Cổ phiếu đã thành lập thị trường cổ phiếu Nasdaq với chức năng
định giá tự động, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các công ty mới trong quá
trình phát hành cổ phiếu ra công chúng. Kết quả là, số lượng các công ty mới đã
tăng lên nhanh chóng trong suốt hai thập kỷ tiếp theo và khi nền kinh tế phát
triển, các công ty này lại sáp nhập với rất nhiều công ty có nguồn giá trị vốn
hóa thị trường lớn trước đây, tạo ra các công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị
trường rất lớn. Giá trị thị trường vượt qua con số 100 tỉ đô la, vốn là con số
rất hiếm gặp trong những năm trước đây. Đến năm 1999, giá trị thị trường của
hai công ty lớn nhất nước Mỹ là General Electric và Microsoft thậm chí còn lên
tới hơn 600 tỉ đô la. Thậm chí trong thời điểm hiện nay, sau cuộc khủng hoảng
thị trường hồi năm 2000 và 2001, giá trị vốn hóa thị trường của GE vẫn đạt gần
400 tỉ đô la còn Microsoft chỉ đứng sau một chút. Hiện tại, ở Mỹ, có khoảng 25
công ty có giá trị vốn hóa thị trường hơn 100 tỉ đô la.
Khi so sánh với những
công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ nhất, nằm trong khoảng từ 100 tới 200
triệu đô la (phụ thuộc vào cách phân loại của bạn), khoảng cách được nhân lên
hơn hai nghìn lần! Hố phân cách cực lớn này đã tạo ra một “tầng lớp” bao gồm những
công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn hơn mức giá trị vốn hóa nhỏ và
nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn mức giá trị vốn hóa lớn, nằm trong khoảng
từ vài tỉ đô la tới 15 tỉ đô la (nhóm này được gọi là nhóm có giá trị vốn hóa
thị trường trung bình). Nói chung, cổ phiếu của công ty có nguồn giá trị vốn
hóa thị trường bậc trung thường có tính ổn định gần bằng nhóm có giá trị vốn
hóa thị trường lớn, nhưng vẫn có tiềm năng tăng trưởng như nhóm có giá trị vốn
hóa nhỏ.
Rất nhiều nhà phân tích
phân loại giá trị vốn hóa thị trường theo ba mức: lớn, trung bình, nhỏ. Nhưng
do giá trị vốn hóa tối đa của một công ty thuộc nhóm có nguồn vốn hóa nhỏ là
trên một tỉ đô la, nên một mức phân loại mới bắt đầu được sử dụng cho các công
ty có nguồn vốn nhỏ hơn. Những công ty thuộc nhóm “siêu nhỏ” có giá trị vốn hóa
thị trường tối đa là 150 triệu đô la. Hiện nay, có khoảng gần 10 nghìn công ty
thuộc bốn phân đoạn thị trường này: lớn, trung bình, nhỏ và siêu nhỏ.
Chúng ta nên nhớ nguồn
giá trị vốn hóa thị trường là một khái niệm không bất biến. Có rất nhiều người
sử dụng phạm vi nguồn vốn khác nhau cho các phân loại khác nhau (xem Bảng 8-1),
nhưng điều quan trọng hơn cả là khi giá cổ phiếu thay đổi hoặc khi phát hành
thêm cổ phiếu, các công ty thường “trôi nổi” giữa các phạm vi phân loại đó. Các
công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ trở thành các công ty có vốn mức
trung bình, các công ty có giá trị vốn hóa thị trường trung bình trở thành các
công ty có vốn lớn và đôi khi một công ty nào đó sẽ mất vị thế và thoái lui
thành một công ty có mức giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ. Rõ ràng là, sự
phân cấp nguồn vốn không phải là bức tường cứng rắn mà là khái niệm tương đối
“mềm” giúp chúng ta tập trung vào mối quan tâm chủ yếu của mình.
Hầu hết các chuyên gia
phân loại đều thừa nhận tình trạng không ổn định này thông qua việc thường
xuyên điều chỉnh lại vị trí xếp hạng hay chỉ số của các công ty. Các chỉ số
Russell được điều chỉnh mỗi năm một lần để phản ánh chính xác nguồn giá trị vốn
hóa thị trường hiện tại còn trang web Morningstar.com thường điều chỉnh bảng xếp
hạng vào cuối mỗi tháng. Điều thú vị là, Morningstar xếp hạng 250 công ty lớn
nhất là những công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn, 750 công ty tiếp
theo có nguồn giá trị vốn hóa thị trường trung bình và những công ty còn lại là
các công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ. Với gần 10 nghìn cổ phiếu
giao dịch trên các thị trường cổ phiếu chính ở Mỹ, bảng xếp hạng 1000 công ty
có giá trị vốn hóa thị trường lớn và các công ty có vốn trung bình đã “để lại”
một nhóm khổng lồ là các công ty có mức vốn nhỏ.Cá nhân chúng tôi thích kiểu
phân loại theo bảng 8-1 hơn.
(Nếu bạn muốn sử dụng các
công cụ tìm kiếm trên Internet để tìm cổ phiếu có mức giá trị vốn hóa thị trường
nào đó, hãy sử dụng “giá trị vốn hóa thị trường” làm từ khóa và sử dụng các
nhóm phân loại trong Bảng 8-1).
Nguồn giá trị vốn hóa thị trường suy giảm
Một vài năm trước đây,
nhiều công ty thuộc nhóm giá trị vốn hóa lớn đã mất 50%, thậm chí tới 90% giá
trị vốn hóa thị trường, nhưng điều đó không có nghĩa là các công ty này trở
thành những công ty nhỏ hơn trên các phương diện khác. Có thể, ở các công ty này
đang diễn ra tình trạng ngừng hoặc cắt giảm sản xuất, nhưng chắc chắn nguồn giá
trị vốn hóa thị trường thấp hơn không thể khiến một công ty thuê ít nhân công
hơn hoặc làm giảm doanh thu của công ty đó. Sự suy giảm giá trị vốn hóa thị trường
chỉ đơn giản là do thị trường không đánh giá công ty đó như trước đây. Tác động
tiêu cực nghiêm trọng của tình trạng suy giảm giá trị vốn hóa thị trường đó là
giá trị cổ phiếu suy giảm, dẫn đến việc công ty có thể mất khả năng sử dụng cổ
phiếu để thực hiện các vụ mua lại. Tất nhiên, khi giá trị vốn hóa thị trường
suy giảm trên diện rộng, như từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng thị trường hồi
năm 2000 - 2001, hầu hết các công ty đều mất đi giá trị thị trường, khiến tình
trạng bị mất giá trị của cổ phiếu không còn là vấn đề quá nghiêm trọng nữa.
ĐI VÒNG TRÒN
Trong lịch sử, tùy từng
thời điểm, thị trường sẽ dành ưu đãi cho những công ty có quy mô khác nhau, tạo
ra sự “xoay vòng” của giá trị vốn hóa thị trường. Sự xoay vòng của giá trị vốn
hóa thị trường có thể làm tăng hoặc có thể gây tác động tiêu cực tới khả năng
thu lợi nhuận của bạn (ít nhất là trong ngắn hạn). Vì vậy, tập trung sự chú ý
vào mức giá trị vốn hóa thị trường nào đang được ưa chuộng trong thời điểm hiện
tại có thể là một ý kiến rất hay.
Điều kiện thị trường và
điều kiện kinh tế thay đổi khiến lượng tiền đổ vào nhóm cổ phiếu đó tăng và đây
chính là yếu tố khiến một mức giá trị vốn hóa thị trường được ưa chuộng. Hướng
dòng tiền đổ vào một phân đoạn thị trường vốn hóa cụ thể chính là công của các
nhà đầu tư theo tổ chức. Hàng trăm quỹ lương, quỹ tương hỗ và quỹ chỉ số chính
là các quỹ kiểm soát hàng tỉ tỉ đô la. Tình trạng xoay vòng này ban đầu xảy ra
giữa khu vực có giá trị vốn hóa thị trường lớn, trung bình và nhỏ do chúng có
cơ sở cổ đông theo tổ chức lớn.
Nhiều nhà đầu tư theo tổ
chức chỉ quan tâm đến cổ phiếu thuộc nhóm có giá trị vốn hóa thị trường lớn, một
số khác lại đầu tư vào những cổ phiếu thuộc nhóm trung bình và một số nhỏ hơn lại
đầu tư vào nhóm nhỏ. Kết quả là, sự ủng hộ của các tổ chức vừa đủ lớn để tạo ra
những giai đoạn mà các nhóm cổ phiếu đó được ưa chuộng. Tuy vậy có thể khẳng định
rằng thị trường rất hiếm khi chuộng cổ phiếu của các công ty có nguồn giá trị vốn
hóa thị trường siêu nhỏ, bởi vì có rất ít tổ chức có thể đầu tư hợp pháp vào những
công ty thuộc nhóm này.
Hai ví dụ điển hình minh
họa cho sự xoay vòng giữa các nguồn giá trị vốn hóa thị trường xuất hiện vào đầu
những năm 1960 và cuối những năm 1990. Trong giai đoạn những năm 1950 và 1960,
xuất hiện một trào lưu “chuộng” các công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn
trong đó mọi người đổ xô đầu tư vào những công ty có giá trị thị trường lớn nhất.
Đây chính là giai đoạn của “Nifty Fifty”, với khoảng gần 50 công ty lớn nhất nước
Mỹ vào thời điểm đó, nhiều công ty trong số đó là những tên tuổi rất đỗi quen
thuộc như IBM, Xerox và Polaroid. Cổ phiếu của 50 công ty này đạt giá trị thị
trường ở mức cao phi thường, dẫn tới hậu quả không thể tránh khỏi là sự xói mòn
dần giá của chính những cổ phiếu đó. Tiếp theo giai đoạn Nifty Fifty là giai đoạn
cổ phiếu của những công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ được ưa chuộng
trong nhiều năm liền do giá trị hợp lý và triển vọng tăng trưởng của chúng.
Ví dụ thứ hai là cú xoay
vòng thị trường xuất hiện ở thị trường giá lên cuối những năm 1990. Khi đó, cổ
phiếu có giá trị thị trường lớn rất được ưa chuộng, đẩy giá trị của chúng ngày
một tăng cao hơn. Tình huống này đã được tiên đoán từ trước với nhận định rằng
những khoản tiền rất lớn sẽ đổ vào các quỹ đầu tư theo chỉ số . Do đó, các quỹ
này buộc phải đổ nhiều tiền hơn nữa vào các cổ phiếu cá nhân đã tạo nên chỉ số,
làm cho giá cổ phiếu tăng, dẫn tới chỉ số quỹ tăng và lôi kéo ngày càng nhiều
người tham gia vào loại hình đầu tư của mình.
Trên đây chỉ là hai ví dụ
điển hình về sự đảo chiều từ mức giá trị vốn hóa thị trường này sang mức giá trị
vốn hóa thị trường khác. Trong lịch sử thị trường gần đây, có rất nhiều cú xoay
chiều thị trường như vậy.
Theo dõi sự xoay chiều của giá trị vốn hóa thị trường
Bạn có thể theo dõi sự
xoay chiều của giá trị vốn hóa thị trường thông qua việc nghiên cứu biểu đồ cổ
phiếu của các chỉ số khác nhau và của các quỹ ETF. Các chỉ số và các quỹ ETF được
dùng để theo dõi sự đảo chiều của giá trị vốn hóa được liệt kê trong Bảng 9-1
và Bảng 9-2, Chương 9.
Mức giá trị vốn hóa thị
trường đang được ưa chuộng thường được đánh giá quá cao còn những nguồn giá trị
vốn hóa thị trường tạm thời không được ưa chuộng sẽ bị suy giảm giá trị. Khi thị
trường bùng nổ hồi năm 2000 tạo ra áp lực bán nặng nề đối với cổ phiếu có giá
trị vốn hóa thị trường lớn, các nhà đầu tư lại để mắt tới những cổ phiếu có nguồn
giá trị vốn hóa thị trường trung bình. Trào lưu này kéo dài trong suốt hai quý
cuối năm 2000 và quý đầu tiên của năm 2001. Trong những tháng cận kề tháng 9
năm 2001, những công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ lại được ưa chuộng
một phần là bởi vì sau nhiều năm liền bị phớt lờ, hiện chúng đã tạo ra những
giá trị tuyệt vời và một phần là do vào thời điểm đó, nền kinh tế của Mỹ dường
như sắp phải đối mặt với một cuộc suy thoái. (Một nền kinh tế suy thoái thường
gây ảnh hưởng tới những công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn hơn là
những công ty có nguồn vốn nhỏ bởi các công ty nhỏ hơn có thể hoạt động trong
những phân đoạn thị trường cạnh tranh nhỏ, không bị tác động bởi những biến động
của nền kinh tế). Nhưng vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11
tháng 9 đã tạo ra sự trở lại nhanh chóng và an toàn cho một loạt cổ phiếu
blue-chip (mặc dù động thái này không hoàn toàn hợp lý bởi vì hầu hết các cổ
phiếu blue-chip đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ tình trạng bất ổn của nền kinh tế
sau vụ tấn công). Bên cạnh sự kiện bất ngờ đó, các nhà đầu tư cũng tìm kiếm những
cổ phiếu hứa hẹn sẽ mang lại mức lợi nhuận lớn nhất, do đó, thị trường cũng
xoay chiều tới nguồn giá trị vốn hóa thị trường hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội
nhất.
Có lẽ giờ đây, bạn đọc đã
hiểu được tại sao việc nghiên cứu giá trị vốn hóa thị trường lại cần thiết đến
vậy. Qua việc chú ý xem giá trị vốn hóa thị trường nào đang được ưa chuộng, bạn
sẽ thấy việc tìm ra những cổ phiếu thích hợp trong một ngành rất đơn giản: nó
phụ thuộc vào phương pháp đầu tư của bạn.
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC GIÁ TRỊ VỐN HÓA THỊ TRƯỜNG
Mức giá trị vốn hóa lớn
Các công ty có mức giá trị
vốn hóa thị trường lớn thường ổn định hơn, có doanh thu lớn hơn, hoạt động đa dạng
hơn và giúp nhà đầu tư dễ dàng dự đoán được lợi nhuận hơn những công ty có giá
trị vốn hóa thị trường nhỏ. Song, điều này không có nghĩa là những công ty này
không bị lâm vào tình trạng khủng hoảng (một ví dụ điển hình gần đây là trường
hợp của công ty Polaroid đã phải thông báo phá sản). Nhưng trụ cột chính của
dòng cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn là những cổ phiếu blue-chip
quen thuộc như AT&T, Coca-Cola, ExxonMobil, General Electric, General
Motors, IBM, Mc Donald’s và Wal- Mart. Cùng với khả năng cung cấp nguồn lợi nhuận
ổn định hơn, dễ dự đoán hơn, các công ty có cổ phiếu blue-chip còn thường xuyên
trả cổ tức cho các nhà đầu tư.
Mặc dù không phải tất cả
đều là cổ phiếu blue-chip, nhưng những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn
thường được xem là ít rủi ro hơn bởi vì tính ổn định của chúng cao hơn và chúng
có nhiều cổ phiếu đang phát hành hơn. Điều này có nghĩa là phiếu có giá trị vốn
hóa thị trường lớn có tính thanh khoản cao hơn những cổ phiếu có giá trị vốn
hóa thị trường nhỏ hơn. Các cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn cũng có
nhiều cổ đông hơn và được nghiên cứu nhiều hơn.
Những công ty có giá trị
vốn hóa thị trường lớn ổn định, vững chắc đã gặp phải khó khăn trong suốt khoảng
thời gian bùng nổ cơn sốt mạng năm 1999. Các công ty thế hệ internet (dot.com)
nổi lên chỉ sau một đêm với giá trị thị trường luôn nằm tốp đầu của những cổ
phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn (ví dụ như Yahoo! Và Amazone.com).
Nhưng có một sự khác biệt rất lớn. Những công ty có giá trị vốn hóa thị trường
lớn mới được tạo ra này có mức doanh thu thấp và trong nhiều trường hợp còn
không có lợi nhuận. Mặc dù rất nhiều công ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường
lớn truyền thống bị mất đi một phần rất lớn giá trị thị trường, nhưng các đại
gia thế hệ dotcom còn thua lỗ tới hơn 90% hoặc hơn.
Có một vài chỉ số phản
ánh đúng kết quả hoạt động của các công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn.
Chỉ số Trung bình công nghiệp Dow Jones (DJI) là chiếc phong vũ biểu phổ biến
nhất của thị trường, được tạo nên từ 30 loại cổ phiếu có nguồn giá trị vốn hóa
thị trường lớn của các ngành công nghiệp khác nhau. Hầu như tất cả các cổ phiếu
trong bảng xếp hạng S&P 500 đều có giá trị vốn hóa thị trường lớn. Bảng xếp
hạng S&P 100 (OEX) chỉ niêm yết 100 công ty lớn nhất trong bảng xếp hạng
S&P 500. Còn bảng xếp hạng Russell Top 200 bao gồm cổ phiếu của những công
ty có nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn với mức giá trị vốn hóa thị trường
trung bình là 48 tỉ đô la. Những quỹ ETF có các cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị
trường lớn được trình bày trong Bảng 9-2, Chương 9.
Giá trị vốn hóa thị trường trung bình
Như đã nói ở phần trước,
nguồn giá trị vốn hóa thị trường trung bình là một khái niệm tương đối mới. Những
cổ phiếu này vừa có tính ổn định của nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn, vừa
có triển vọng tăng trưởng cao của nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ. Cổ phiếu
có giá trị vốn hóa thị trường trung bình cũng hút các nhà đầu tư theo tổ chức
nhưng trong phạm vi nhỏ hơn so với nhóm có giá trị vốn hóa thị trường lớn. Một
số cổ phiếu giá trị vốn hóa thị trường trung bình được nhiều người biết đến là
AmerCredit (ACF), 1,6 tỉ đô la; Scientific Atlanta (SFA), 3,446 tỉ đô la; và
Bed, Bath & Beyond (BBBY), 8,5 tỉ đô la. Năm 2001, hai cựu đại gia có nguồn
giá trị vốn hóa thị trường lớn là eBay (EBAY) và Yahoo! (YHOO), đã gia nhập
phân đoạn giá trị vốn hóa thị trường trung bình, trở thành hai ví dụ điển hình
cho tính lưu động trong phân loại giá trị vốn hóa thị trường. eBay chiếm lĩnh vị
trí đầu bảng với giá trị giá trị vốn hóa thị trường đạt mức 15,3 tỉ đô la hồi đầu
tháng 11. Vì vậy, vào thời điểm hiện tại, có thể công ty đã trở lại phân đoạn
nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn. Với giá trị vốn hóa thị trường hiện tại
là 7,4 tỉ đô la, còn phải rất lâu Yahoo! mới có thể quay lại phân đoạn ban đầu
(đại gia Internet này từng có nguồn giá trị vốn hóa thị trường đạt mức 100 tỉ
đô la).
Bảng xếp hạng S%P MidCap
400 và Chỉ số Russell Midcap có chức năng đo lường khả năng hoạt động của nguồn
giá trị vốn hóa thị trường bậc trung. Những quỹ ETF có nguồn giá trị vốn hóa thị
trường bậc trung được trình bày tại Bảng 9-2, Chương 9.
Giá trị vốn hóa thị trường nhỏ
Một trong những đặc điểm
bất biến của nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ đó là tiềm năng
tăng trưởng nhanh. Việc nhân đôi giá trị thị trường của một cổ phiếu trị giá
100 triệu đô la chắc chắn sẽ dễ dàng hơn một cổ phiếu trị giá 100 tỉ đô la. Tuy
vậy, lợi nhuận và rủi ro bao giờ cũng đi liền với nhau. Vì thế, sẽ chẳng có gì
đáng ngạc nhiên khi các cổ phiếu có nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ dễ biến
động hơn và rủi ro cao hơn cổ phiếu có nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn. Một
lý do hiển nhiên giải thích cho đặc điểm này đó là một công ty có nguồn giá trị
vốn hóa thị trường nhỏ điển hình thường chỉ sở hữu một dòng sản phẩm trong một
thị trường đơn lẻ và vì thế dễ bị tác động hơn. Nhưng những nhà đầu tư chuộng
loại cổ phiếu này có thể sẽ lập luận rằng một công ty có dòng sản phẩm ở vị trí
thuận lợi trên thị trường có thể dễ dàng tạo ra mức tăng trưởng lợi nhuận lớn
hơn rất nhiều lần so với một công ty với hàng trăm dòng sản phẩm trong hàng chục
thị trường khác nhau.
Nền tảng cổ đông của loại
cổ phiếu này chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Mặc dù có rất nhiều quỹ tương hỗ
có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ, nhưng nhiều nhà đầu tư theo tổ chức vẫn chuộng
cổ phiếu thuộc nhóm lớn và trung bình hơn.
Bạn sẽ tìm thấy trong
nhóm giá trị vốn hóa thị trường nhỏ những cổ phiếu có mức tăng trưởng cao như
Metro One Communication (MTON), 906,1 triệu đô la; Ulticom (ULCM), 406,9 triệu
đô la; CheckPoint Systems(CKP), 319,7 triệu đô la; Toll Brothers (TOL), 1,158 tỉ
đô la; Tập đoàn Thương mại Knight (NITE), 1,476 tỉ đô la; và Stein Mart (SMRT),
345,3 triệu đô la (số liệu thống kê nguồn giá trị vốn hóa thị trường vào ngày
26 tháng 11 năm 2001).
Phần lớn cổ phiếu của
nhóm này được niêm yết trên thị trường cổ phiếu Nasdaq đơn giản là bởi vì những
công ty mới và nhỏ hơn nhận thấy môi trường đầu tư trên thị trường cổ phiếu
Nasdaq tạo điều kiện giao dịch dễ dàng hơn trên Thị trường Chứng khoán New
York. Thị trường Chứng khoán New York quản lý hoạt động kinh doanh thông qua
các nhà giao dịch sàn và các công ty nhỏ có thể sẽ bị “lạc” nếu không có ai đó
hướng dẫn và tạo lập thị trường cho họ, cỏn ở thị trường Chứng khoán Nasdaq đó
là công việc của các nhà tạo lập thị trường. Nhiều cổ phiếu nhóm này sẽ có bốn
hoặc năm hoặc thậm chí hàng chục nhà tạo lập thị trường giúp họ duy trì tính khả
thi cho tới khi họ có thể tự tạo được danh tiếng cho bản thân. Tuy vậy, vẫn có
những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ trên Sàn Giao dịch New York
(NYSE) và AMEX và các cổ phiếu nguồn giá trị vốn hóa thị trường lớn trên sàn
giao dịch Nasdaq. Nhiều công ty, như Microsof (MSFT) và Intel (INTC), vẫn niêm
yết trên thị trường cổ phiếu Nasdaq mặc dù giá trị vốn hóa thị trường của họ
vào khoảng hàng nghìn tỉ đô la.
Một trong những tiêu chuẩn
đánh giá kết quả hoạt động của cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ đó là
Chỉ số Russell 2000 (RUX. X). Bảng xếp hạng theo chỉ số này bao gồm 2000 cổ phiếu
với giá trị vốn hóa thị trường trung bình vào khoảng gần 530 triệu đô la tính tới
mùa thu năm 2001. Một chỉ số của nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ
khác đó là S&P 600, bao gồm 600 cổ phiếu với giá trị vốn hóa thị trường vào
khoảng 551 triệu đô la. Các quỹ có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ được trình
bày tại Bảng 9-2 trong Chương 9.
Giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ
Giá trị vốn hóa thị trường
siêu nhỏ là phân đoạn giá trị vốn hóa thị trường mới nhất mặc dù không được các
bảng xếp hạng hàng đầu như Russell, Morningstar hay S&P chính thức công nhận.
Điều này có thể là do hầu như không có hoặc có rất ít thông tin về nguồn vốn
này. Các nhà đầu tư theo tổ chức - những người thường đầu tư hàng triệu đô la
vào một cổ phiếu đơn lẻ - hiếm khi đầu tư vào một công ty có giá trị thị trường
thấp hơn mức 100 triệu đô la. Nguyên nhân là một vụ đầu tư trị giá vài trăm triệu
đô la trong một công ty như vậy sẽ đòi hỏi mức độ sở hữu rất khó chấp nhận ở một
công ty nhỏ bởi vì điều đó đồng nghĩa với sự kiểm soát hoặc chi phối. Thêm vào
đó, khả năng thanh khoản kém của nguồn vốn siêu nhỏ là điều rất khó chấp nhận
được. Các giao dịch cổ phiếu siêu nhỏ trong một ngày đều ít hơn 50 nghìn cổ phiếu.
Tuy vậy, chắc chắn rằng
tình trạng nguồn giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ sẽ kéo dài và cuối cùng sẽ
trở nên phổ biến. Bởi vì sẽ rất khó để so sánh một công ty có giá trị thường thấp
hơn 100 triệu đô la với một công ty có giá trị thị trường trị giá hàng tỉ đô
la. Vì thế, một bậc phân loại riêng là cần thiết cho nhóm những cổ phiếu nhỏ
hơn này.
Nhóm cổ phiếu có giá trị
vốn hóa thị trường siêu nhỏ mà chúng ta đang bàn đến thường là những cổ phiếu
có giá trị nhỏ nhất niêm yết trên thị trường Chứng Khoán New York. Trên thị trường
Nasdaq, chúng không được niêm yết trên bảng tin hoặc trên bảng niêm yết các cổ
phiếu blue-chip. Ví dụ, trên sàn giao dịch chứng khoán New York, có một số cổ
phiếu thuộc nhóm siêu nhỏ như Zapata Corp (ZAP), với giá trị vốn hóa thị trường
là 48 triệu đô la và giá cổ phiếu là 20 đô la/cổ phiếu; Rex Stores (RSC), với
giá trị vốn hóa thị trường là 110,9 triệu đô la và giá cổ phiếu là 14 đô la/cổ
phiếu; và Morton’s restaurant (MRG), với giá trị thị trường là 52,6 triệu đô la
và giá cổ phiếu là 12 đô la/cổ phiếu (tính tới ngày mồng 6 tháng 11 năm 2001).
Giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ và các cổ phiếu
niêm yết trên bảng tin
Các bảng tin được sử dụng để giao dịch “qua quầy”,
trong đó người giao dịch và người môi giới thoả thuận giá cổ phiếu với nhau. Hiện
nay, cổ phiếu thường được định giá trên các thiết bị điện tử thông qua bảng tin
OTC (www.otcbb.com). Những cổ phiếu niêm yết trên bảng tin có mức độ rủi ro cao
hơn nhiều so với những cổ phiếu được niêm yết trên thị trường cổ phiếu bởi vì
tình trạng khan hiếm nguồn thông tin do các yêu cầu báo cáo kém rõ ràng và tính
thanh khoản không cao. Trong hai năm qua, Sàn giao dịch chứng khoán Nasdaq đã
thắt chặt yêu cầu báo cáo của các cổ phiếu OTCBB. Hiện nay, Nasdaq buộc tất cả
các công ty sở hữu cổ phiếu phải được định giá thông qua các bản báo cáo 10K và
10Q thường xuyên đệ trình lên Uỷ ban Hối đoái và Chứng khoán nhằm giữ giá đã
niêm yết.
Do quy mô vốn nên cổ phiếu
có nguồn giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ hứa hẹn tiềm năng tăng trưởng lớn
nhất và tất nhiên cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Các nhà đầu tư tìm kiềm lợi
nhuận khổng lồ có thể đầu tư vào cổ phiếu nhóm này mà không cần quan tâm đến
nhóm giá trị vốn hóa thị trường nào đang được ưa chuộng. Hãy nhớ rằng đầu tư
vào cổ phiếu siêu nhỏ đòi hỏi nhà đầu tư phải kiên nhẫn. Một công ty có nguồn
giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ cần phải tạo ra mức tăng trưởng vững chắc để
cho các nhà đầu tư thấy rằng giá trị thị trường của công ty tăng trưởng đủ mạnh,
dần tiến tới mức phân loại giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hoặc trung bình. Ngay
sau đó, chắc chắn các nhà đầu tư sẽ quan tâm nhiều hơn tới cổ phiếu này và hi vọng
mức tăng trưởng ổn định của chỉ số P/E có thể đẩy mức giá lên rất cao. Nói
chung, vì chưa có những bằng chứng rõ ràng về khả năng tăng trưởng lợi nhuận
nên tiềm năng của nhóm cổ phiếu này thường được đo bằng mức tăng trưởng doanh
thu. Rõ ràng là tất cả các yếu tố này đều làm tăng nguy cơ rủi ro của cổ phiếu
có giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ.
Như đã nói ở phần trước,
gần như chắc chắn rằng giá trị vốn hóa thị trường siêu nhỏ sẽ không bao giờ trở
thành mức vốn được ưa chuộng chỉ đơn giản là do thiếu sự sở hữu có tổ chức. Chỉ
số duy nhất mà chúng ta biết đến có bao gồm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường
siêu nhỏ đó là chỉ số Microcap 1000 Index. Không có quỹ ETF nào có giá trị vốn
hóa thị trường siêu nhỏ. Tuy nhiên, bạn có thể tham khảo thêm về nhóm cổ phiếu
này tại trang www.investor.stockpoint.com hoặc bất kỳ trang web nào của nhà
môi giới trực tuyến có cổ phiếu được định giá dựa trên trang StockPoint.
SỬ DỤNG GIÁ TRỊ VỐN HÓA THỊ TRƯỜNG NHƯ MỘT PHƯƠNG THỨC
ĐẦU TƯ
Sử dụng giá trị vốn hóa
thị trường như một chiến lược đầu tư hoàn toàn khác với việc lựa chọn một
phương thức đầu tư, mặc dù có một số phương thức đầu tư phù hợp hơn với mức giá
trị vốn hóa thị trường cụ thể. Ví dụ như, các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
thường thu được lợi nhuận lớn nhất từ những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường
được ưa chuộng bởi vì khả năng tăng tốc của những cổ phiếu này là lớn nhất. Các
nhà phân tích kỹ thuật có thể sẽ thấy dễ dàng hơn nếu đi theo dòng giá trị vốn
hóa thị trường đang được ưa chuộng hiện tại và có thể, họ sẽ quan tâm tới nguồn
giá trị vốn hóa thị trường cũng chẳng kém việc họ quan tâm tới tên của các công
ty trên biểu đồ cổ phiếu. Mức vốn duy nhất mà các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
và kỹ thuật tránh có lẽ là mức vốn siêu nhỏ bởi vì chúng có khả năng lưu thông
hạn chế và thiếu tính thanh khoản.
Các nhà đầu tư giá trị là
những người đối lập hoàn toàn, bởi vì những công ty bị đánh giá thấp nhất chắc
chắn sẽ có tên trong những phân đoạn thị trường không được ưa chuộng và đó
chính là nơi các nhà đầu tư giá trị chắc chắn sẽ tìm tới. Tuy nhiên, việc thiếu
tiềm năng lợi nhuận thường khiến các nhà đầu tư giá trị tránh xa cổ phiếu có
giá trị vốn hóa siêu nhỏ.
Các nhà đầu tư tăng trưởng
thường không chịu ảnh hưởng nhiều từ sự xoay chiều của giá trị vốn hóa thị trường
bởi vì họ thường ưa chuộng mức giá trị vốn hóa thị trường nhỏ và siêu nhỏ.
Yếu tố thực sự quan trọng
là ý thích cá nhân. Hãy nhớ rằng yếu tố rủi ro của các công ty lớn ngược lại với
các công ty nhỏ, vấn đề là ở chỗ mức giá trị vốn hóa nào phù hợp với bạn nhất.
Bạn có thể thấy bạn quan tâm hơn và phù hợp nhất với một hoặc hai loại giá trị
vốn hóa thị trường. Một số nhà đầu tư đơn giản chỉ thích những cổ phiếu có giá
trị vốn hóa thị trường lớn, với những cái tên nổi tiếng. Một số khác lại hồi hộp
tìm kiếm sự mới lạ ở những công ty nhỏ hơn thường xuyên có sản phẩm mới và có đội
ngũ quản lý nhìn xa trông rộng. Trong dài hạn, các nhà đầu tư cá nhân có thể
thành công với bất kỳ nguồn giá trị vốn hóa thị trường nào, vì thế bạn nên chọn
lựa nguồn giá trị vốn hóa thị trường nào mà cá nhân bạn ưa thích. Bạn chỉ cần
nhớ rằng mức giá trị vốn hóa thị trường đang được ưa chuộng luôn có khả năng
tác động hoặc củng cố lợi nhuận của bạn.
Các quỹ tập trung vào giá trị vốn hóa thị trường
Có hàng trăm quỹ tương hỗ
và quỹ ETF tập trung vào nhóm cổ phiếu có nguồn giá trị vốn hóa thị trường nhỏ,
trung bình hoặc lớn. Hầu hết mỗi quỹ tương hỗ gia đình đều có một hoặc nhiều
hơn mức giá trị vốn hóa thị trường để thích ứng với một phương thức đầu tư (đầu
tư tăng trưởng phù hợp với mức vốn nhỏ, còn đầu tư giá trị lại phù hợp với mức
vốn lớn).
Biết cổ phiếu thuộc giá
trị vốn hóa thị trường nào và giá trị vốn hóa thị trường nào hiện đang được ưa
chuộng có thể giúp bạn hoạt động tốt hơn trên thị trường. Nhưng đừng dành quá
nhiều thời gian nghiên cứu vấn đề này. Nguồn giá trị vốn hóa thị trường không
phải là một phong cách đầu tư. Mục đích của chúng tôi chỉ là giúp bạn hiểu hơn
về các mức giá trị vốn hóa thị trường và cách thức chúng xoay chuyển từ được ưa
chuộng sang không được ưa chuộng và ngược lại. Hiều biết về các mức giá trị vốn
hóa thị trường có thể giúp bạn hoạt động tốt hơn, nhưng chỉ khi bạn biết cách kết
hợp với phong cách đầu tư phù hợp nhất.
CHƯƠNG 9. Những phong cách đầu tư phụ
và các chiến lược đầu tư khác
Có một số phong cách đầu
tư chỉ là những nhánh nhỏ hoặc là sự kết hợp của bốn phong cách đầu tư chính.
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu năm trong số những phong cách đầu tư
phụ này: đầu tư cơ bản, đầu tư doanh thu, đầu tư giao dịch chủ động, đầu tư kết
hợp và đầu tư lướt sóng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ xem xét hai chiến lược đầu
tư quan trọng có thể hỗ trợ bất kỳ phương thức đầu tư nào: đầu tư từ trên xuống
dưới, giao dịch nội bộ và một loạt các phương thức đầu tư nhỏ lẻ khác.
ĐẦU TƯ CƠ BẢN: THEO DÕI BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Đầu tư cơ bản rất giống với
đầu tư giá trị. Nhưng trong khi nhà đầu tư giá trị chỉ tập trung vào mối quan hệ
giữa P/E và tỉ lệ tăng trưởng lợi nhuận, thì các nhà đầu tư cơ bản lại tập
trung vào bảng cân đối kế toán hoặc hoặc tài sản của một công ty. Nói cách
khác, các nhà đầu tư giá trị quan tâm tới khả năng tăng trưởng ở mức giá hợp lý
(GARP), còn các nhà đầu tư cơ bản lại quan tâm tới các chi tiết trong bảng cân
đối kế toán như tiền mặt, nợ thấp, tài sản cố định, v.v.
Vậy, bảng cân đối kế toán
của một cổ phiếu cơ sở có tiềm năng sẽ như thế nào? Nợ thấp, nhiều tiền mặt,
các khoản phải thu và tồn kho có giá trị tương đối lớn (ngược lại với cổ phiếu
vượt quá giá trị). Ngoài ra, nó có thể có hoặc không có tài sản trị giá cao hơn
số liệu trên sổ sách. Tìm kiếm điều kiện thứ hai là tương đối khó đối với một
nhà đầu tư bình thường, nhưng đó chính là thứ mà các nhà đầu tư cơ bản tìm kiếm.
Ban đầu, họ tìm kiếm một công ty có cổ phiếu được bán ở mức thấp hơn giá trị
tài sản của công ty. Điều này xảy ra khi thị trường, vì một lý do nào đó, đã
làm giảm giá trị của cổ phiếu (có thể là do công ty không sử dụng tài sản để tạo
ra lợi nhuận hợp lý). Kết quả là tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách thấp. Như bạn
đã biết, giá trị sổ sách được tạo nên từ tiền mặt, bất động sản và các tài sản
khác thuộc sở hữu của công ty.
Ví dụ, một công ty sở hữu
một toà nhà mà cách đây 20 năm công ty đó phải mua với giá 10 triệu đô la. Trên
sổ sách, toà nhà có thể bị mất giá với giá trị gần bằng giá trị của đất đai (giả
sử là 1 triệu đô la). Nhưng nhờ lạm phát hay sự nâng giá bất động sản, giá trị
của cả toà nhà và đất có thể lên tới 40 triệu đô la. Một tài sản bị định giá thấp
khác cũng có thể là một vụ đầu tư có giá trị cao hơn giá trị ghi trong sổ sách.
Giá trị đích thực của những loại tài sản này sẽ được “mang ra ánh sáng” ngay
khi chúng ta xem xét kỹ lưỡng bảng cân đối kế toán và một số thông tin khác.
Phát hiện những loại tài
sản dưới giá trị này cần nhiều thời gian và công sức hơn những gì một nhà đầu
tư bình thường có thể dành cho một vụ đầu tư. Bạn có thể tìm thấy một vài manh
mối trong lời chú thích ở cuối trang, trong phần mục lục của các bản báo cáo
tài chính hoặc trong các báo cáo nghiên cứu chi tiết của các công ty môi giới,
nhưng rõ ràng tìm kiếm những tài sản dưới giá trị thường là phạm vi trách nhiệm
của các chuyên gia đầu tư và các viện nghiên cứu.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư
có thể dễ dàng phát hiện ra tỷ lệ giá trên giá trị sổ sách thấp (dưới 1) và/hoặc
lượng tiền mặt của một cổ phiếu lớn hơn giá cổ phiếu đó. Nếu giá cổ phiếu của một
công ty là 5 đô la và số dư tiền mặt của cổ phiếu là 6 đô la, rủi ro đầu tư gần
như bằng không bởi vì về mặt lý thuyết, công ty có thể nhận được khoảng 6 đô la
cho một cổ phiếu hoặc thậm chí cao hơn. Đây là trường hợp xảy ra ở nhiều công
ty Internet thời kỳ hậu suy thoái bởi vì họ vẫn chưa sử dụng hết số tiền mặt đã
huy động trong lần phát hành cổ phiếu đầu tiên. Tất nhiên, nếu công ty đổ nhiều
tiền mặt vào các vụ đầu tư không mang lại kết quả tốt, số tiền mặt có trong tay
cũng sẽ không có nhiều giá trị nữa. Đó chính là lý do tại sao các nhà đầu tư cơ
bản tìm kiếm những công ty có giá trị vốn hóa thị trường được biểu thị bằng tài
sản phần cứng .
Hầu hết các nhà đầu tư đều
không muốn thoát khỏi vị thế của họ bằng cách thanh lý công ty. Vì thế, ngoài bảng
cân đối kế toán gồm những tài sản được định giá dưới giá trị, các nhà đầu tư cơ
bản còn tìm kiếm những cổ phiếu có mức tăng trưởng lợi nhuận tiềm năng như các
nhà đầu tư giá trị. Điểm khác biệt là ở chỗ các nhà đầu tư cơ bản tập trung vào
bảng cân đối kế toán. Một cổ phiếu với tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận tốt
nhưng không có một bảng cân đối kế toán tốt sẽ không thu hút được sự quan tâm của
nhà đầu tư cơ bản.
Chúng tôi muốn nói rõ rằng
phong cách đầu tư Warren Buffett không phải là thứ chúng tôi thực sự đang bàn tới,
mặc dù Buffett là nhà đầu tư cơ bản xuất sắc. Triết lý đầu tư của ông – tìm kiếm
những công ty có tài sản được định giá dưới giá trị để đảm bảo khả năng tối đa
hoá giá trị của công ty bằng cách bố trí lại tài sản sao cho hiệu quả hơn hoặc
thậm chí bằng cách thanh lý một phần tài sản - đòi hỏi nhà đầu tư phải mua một
lượng cổ phiếu rất lớn, đủ để chiếm một ghế trong hội đồng quản trị và có tiếng
nói trong ban quản lý của công ty. Về cơ bản, nhà đầu tư cơ bản là một nhà đầu
tư giá trị với đặc trưng chỉ tập trung vào bảng cân đối kế toàn và tài sản dưới
giá trị.
Biểu đồ PQ của nhà đầu tư cơ bản
Phong cách đầu tư cơ bản
là một phần của phong cách đầu tư giá trị, vì thế biểu đồ PQ (Biểu đồ 9-1) của
nhà đầu tư cơ bản rất giống với biểu đồ PQ của nhà đầu tư giá trị, tất nhiên vẫn
có sự khác biệt. Nhà đầu tư cơ bản phải dành một khoảng thời gian tương đối để
nghiên cứu danh mục đầu tư bởi vì để tìm ra công ty tiềm năng nhất từ các bảng
cân đối kế toán cần rất nhiều thời gian. Nếu may mắn, có thể họ sẽ tìm được những
tài sản được định giá dưới giá trị. Nhà đầu tư cơ bản cũng phải đạt tới trình độ
ngang hàng với CPA (kỹ năng số học) để có thể đánh giá đúng giá trị của một bảng
cân đối kế toán cụ thể, cũng như chắc chắn về đánh giá của bản thân.
Nhà đầu tư cơ bản phải rất
kiên nhẫn, vừa là để tìm kiếm các công ty có tài sản được định giá dưới giá trị,
vừa là để chờ đợi kết quả thu được. Một cổ phiếu cơ sở chỉ tăng giá trị khi các
nhà đầu tư theo tổ chức “khám phá” ra cổ phiếu và bắt đầu đánh giá cao giá trị
tương đối của công ty. Điều này giải thích tại sao các nhà đầu tư cơ bản cũng
tìm kiếm những công ty có tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận.
Mức độ rủi ro trong đầu
tư cơ bản là thấp nhất trong tất cả các phương thức đầu tư bởi vì nếu xét về mặt
lý thuyết, tài sản của công ty bao giờ cũng có giá trị cao hơn giá cổ phiếu. Do
đó, lợi nhuận kỳ vọng khi áp dụng phong cách đầu tư này có thể thấp hơn những
phong cách đầu tư khác và để đạt được kết quả cũng tốn nhiều thời gian hơn. Đó
là lý do tại sao phong cách đầu tư cơ bản có thể thu hút sự quan tâm của hầu hết
các nhà đầu tư bảo thủ.
Như bạn mong đợi, các kỹ
năng kỹ thuật nhận được điểm số thấp nhất trong biểu đồ PQ cơ bản. Nghiên cứu
biểu đồ để tìm kiếm hay gia nhập thị trường cổ phiếu là không cần thiết bởi vì
về bản chất, đầu tư cư bản là mua và nắm giữ trong một thời gian dài.
Cách
thức tìm kiếm một cổ phiếu cơ sở
Các nhà đầu tư cơ bản tìm
kiếm tài sản phần cứng để hỗ trợ công ty và họ phải nghiên cứu các bảng cân đối
kế toán để tìm ra chúng. Bạn có thể đẩy nhanh quá trình này bằng cách sử dụng
nghiên cứu tương tự được mô tả cho phong cách đầu tư giá trị (xem Chương 5) và
thêm vào các tiêu chí để tìm kiếm chỉ số giá trên giá trị sổ sách thấp hoặc tỷ
lệ tiền mặt trên giá cao. Bạn cũng nên đánh giá cao những tiêu chuẩn của bảng
cân đối kế toán. Nhà đầu tư cơ bản cũng tìm kiếm những danh mục vượt quá giá trị
như hàng tồn kho khi lượng hàng hóa bán chậm lại hoặc các khoản phải thu trong
một nền kinh tế khó khăn. Để đánh giá chất lượng của các khoản phải thu và hàng
tồn kho, các nhà đầu tư cơ bản phải xem xét tỷ lệ tăng trưởng bán hàng trên sự
thay đổi các khoản phải thu hoặc thay đổi hàng tồn kho. Nếu số ngày của các khoản
phải thu còn tồn tăng, thì đó là dấu hiệu cho thấy những vấn đề tín dụng tiềm
năng với các khoản phải thu. Tương tự như vậy, nếu hàng tồn kho tăng nhiều hơn
doanh thu thì có thể công ty sắp giảm bớt hàng tồn kho. Tất nhiên, vấn đề cốt
lõi là chất lượng tương đối và khả năng bán được tương đối của hàng tồn kho.
Đầu tư cơ bản không phải
là phong cách đầu tư dành cho những tay mơ mới vào nghề. Nó chỉ dành riêng cho
những ai hiểu rõ bảng cân đối kế toàn và đủ kiên nhẫn để tìm ra những công ty
có tài sản được định giá dưới giá trị.
Lời khuyên để phong cách đầu tư cơ bản thành công
1. Phân tích kỹ bảng cân đối kế toán:
Nhà đầu tư cơ bản phải thành thạo kỹ năng này. Nếu muốn trở thành nhà đầu tư cơ
bản, bạn phải xem lại kỹ năng kế toán của mình;
2. Nghiên cứu các danh mục trong bảng
cân đối kế toán: Một công cụ “lọc” sẽ cho phép bạn lướt qua các danh mục trong
bảng cân đối kế toán;
3. Đừng xem lướt qua các chú ý cuối
trang khi đọc bản báo cáo tài chính: Đó chính là nơi tác giả ghi ra hầu hết những
chú ý quan trọng về các vấn đề liên quan;
4. Luôn có kỷ luật: Kỷ luật là yêu cầu đầu
tiên trong quá trình lựa chọn cổ phiếu. Đối với các nhà đầu tư cơ bản, tiêu chí
này cũng quan trọng không kém gì các nhà đầu tư khác.
PHONG CÁCH ĐẦU TƯ DOANH THU: TIỀN Ở ĐÂU?
Các nhà đầu tư doanh thu
cổ phần mua cổ phiếu được trả cổ tức; các nhà đầu tư doanh thu cố định mua trái
phiếu, CD, văn tự cầm cố và các phương tiện mang lại doanh thu cố định khác. Cả
hai mẫu nhà đầu tư trên đều tìm kiếm doanh thu, nhưng do đây là cuốn sách viết
về đầu tư cổ phiếu, nên chúng ta sẽ chỉ thảo luận về nhà đầu tư doanh thu cổ phần.
Tất nhiên, lợi thế lớn nhất
của phong cách đầu tư này là doanh thu và nói chung, cổ phiếu doanh thu khá an
toàn. Doanh thu thường niên của bạn ít nhất cũng bằng với cổ tức thường niên của
cổ phiếu. Nếu cổ phiếu tăng giá, bạn sẽ được tính thêm doanh thu. Vì thế, nếu cổ
tức là 3%, bạn sẽ có ít nhất 3% giá trị cổ phiếu một năm. Nếu giá cổ phiếu
tăng, doanh thu của bạn sẽ được cộng thêm. Nếu giá cổ phiếu giảm, cổ tức sẽ vẫn
như vậy, ít nhất là trong ngắn hạn. Vì vậy, cổ tức tính theo phần trăm giá cổ
phiếu thực tế sẽ tăng. Ví dụ như, nếu bạn mua một cổ phiếu có giá 25 đô la và
được thanh toán mức cổ tức là 1 đô la mỗi năm trên một cổ phiếu, như vậy bạn có
4% giá trị vụ đầu tư. Nếu giá cổ phiếu giảm còn 10 đô la, cổ tức vẫn là 1 đô la
trên một cổ phiếu, lúc này mức cổ tức của bạn là 10% chứ không phải là 4% như
ban đầu, nhưng bạn sẽ chịu lỗ 60% trên tổng số lợi tức cổ phần. Những người mua
mới vào nghề có thể sẽ vui mừng vì mức tăng cổ tức 10% nhưng họ cũng sẽ lo ngại
rằng bởi vì chắc chắn các công ty sẽ cắt giảm cổ tức. Dù giá cổ phiếu sẽ khôi
phục và phần trăm cổ tức sẽ trở lại mức bình thường, nhưng có thể công ty vẫn
cho rằng mọi thứ đang rất tồi tệ và họ buộc phải cắt giảm cổ tức.
Nhà đầu tư tăng trưởng và doanh thu
Một phần của đầu tư doanh
thu chính là đầu tư tăng trưởng và doanh thu. Trong khi nhà đầu tư doanh thu cổ
phần thuần tuý tìm kiếm những cổ phiếu trả mức cổ tức lớn nhất thì nhà đầu tư
tăng trưởng doanh thu lại tìm kiếm những công ty đang tăng trưởng có trả cổ tức
và có lịch sử tăng cổ tức, ví dụ như, công ty Conagra Foods (CAG), đã tăng cổ tức
mỗi quý một lần trong 10 năm qua. Như vậy, các nhà đầu tư tăng trưởng doanh thu
có lợi thế nhất xét trên cả hai mặt, bởi vì họ có doanh thu tăng trưởng ổn định
cổ tức cũng như khả năng tăng giá tiềm năng.
Tại sao phương thức đầu tư doanh thu trở nên lạc hậu?
Vài thập kỷ trước đây, đầu
tư doanh thu là một trong những phương pháp đầu tư cơ bản. Nhưng sau đó là kỷ
nguyên của các công ty công nghệ cao với mức doanh thu phi thường và hội đồng
quản trị đã xem lại cách thức trả cổ tức truyền thống. Ví dụ, nếu công ty của bạn
nổi tiếng vì sản xuất ra
các mạch vi xử lý và đang phát triển với mức tăng trưởng 18% một năm hoặc cao
hơn. Vậy tại sao bạn lại phải trả cổ tức bằng tiền mặt? Tại sao bạn không dùng
lợi nhuận để tái đầu tư vào nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới và tốt
hơn? Đó chính là những gì nhà sản xuất mạch vi xử lý hàng đầu Intel, cùng với một
số công ty công nghệ khác, đã làm với mục đích đẩy mạnh hơn nữa mức tăng trưởng
của công ty. Nhưng các nhà đầu tư tổ chức vẫn trung thành với những cổ phiếu
thanh toán cổ tức, vì vậy họ không mua cổ phiếu của các công ty công nghệ cao
đang được ưa chuộng trên thị trường. Chính vì thế, họ đã bỏ qua mức tăng trưởng
thần kỳ của chúng. Các nhà đầu tư doanh thu cũng bắt đầu nhận ra rằng qua nhiều
năm, những cổ phiếu được trả cổ tức cũng vẫn chỉ tạo ra mức thu lợi trung bình
thường niên vào khoảng 8-9%, so với mức doanh thu trung bình của các cổ phiếu
khác là 11-12%. Vì những lý do này, phương pháp đầu tư doanh thu đã bị liệt vào
hàng ngũ những phong cách đầu tư thứ yếu.
Vai trò của tỷ lệ lãi suất trong phương thức đầu tư
doanh thu
Một đặc trưng của phương
pháp đầu tư doanh thu đó là tỷ lệ lãi suất tổng thể. Khả năng lãi suất thị trường
sẽ thay đổi là một rủi ro của phương thức đầu tư này. Ví dụ, nếu bạn mua một cổ
phiếu với giá 25 đô la với mức 4% cổ tức trong tháng 10 năm 2000, bạn có thể
khá hài lòng vào mùa thu năm 2001 bởi vì tỷ lệ lãi suất giảm xuống dưới mức 3%.
Rất có thể, mức giá cổ phiếu với 4% cổ tức sẽ tăng lên khi mọi người ồ ạt mua
những cổ phiếu có mức trả cổ tức tốt, vì thế khi giá tăng bạn sẽ thu được nhiều
lợi nhuận hơn. Nhưng nếu tỷ lệ lãi suất giảm đi, ví dụ như còn 10%, bạn sẽ
không còn là nhà đầu tư hạnh phúc nữa. Với tỷ lệ lãi suất cao hơn, gần như chắc
chắn rằng giá cổ phiếu với 4% cổ tức sẽ giảm, bởi vì lúc đó, nhà đầu tư sẽ tìm
kiếm những cổ phiếu có khả năng sinh lợi cao hơn mức cổ tức cao trên 5%.
Vấn đề là ở chỗ, những cổ
phiếu được mua vì khả năng trả cổ tức cao vẫn sẽ có rủi ro nếu tỷ lệ lãi suất
tăng cao, bởi vì khi đó, chắc chắn, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nếu bạn là một cổ
đông ngắn hạn, điều này quả thực đáng lo ngại.
Biểu đồ PQ của nhà đầu tư doanh thu
Tóm lại, các nhà đầu tư
doanh thu là những nhà đầu tư dài hạn, với điểm số cao nhất dành cho lòng kiên
nhẫn và thời gian. Với phương thức đầu tư này, tinh thần kỷ luật không phải là
phẩm chất bắt buộc bởi vì nhà đầu tư doanh thu hiếm khi bỏ qua một cổ phiếu có
doanh thu tốt. Các cổ phiếu doanh thu thường ổn định và do các công ty có uy
tín phát hành. Nhờ thế, rủi ro bị thua lỗ thấp hơn, mặc dù đôi khi cũng có những
công ty không trả được cổ tức cho cổ đông do khủng hoảng kinh tế. Một ví dụ là
công ty Pacific Gas & Electric trong giai đoạn năm 2000/2001. Do cuộc khủng
hoảng năng lượng trên phạm vi toàn bang, công ty đã tạm ngừng trả cổ tức và giá
cổ phiếu giảm xuống nhanh chóng. Trên thực tế, công ty đã phải chuẩn bị giấy tờ
để bảo vệ phá sản. Một ví dụ khác gần đây hơn và có lẽ còn đau lòng hơn đó là
trường hợp của Enron, công ty đã phải trả cổ tức cho cổ đông ngay trước khi
tuyên bố phá sản. Tuy vậy, có thể khẳng định rằng rủi ro của các cổ phiếu trả cổ
tức gần như bằng không trừ những trường hợp như của PG&E và Enron.
Thời gian xây dựng và duy
trì danh mục đầu tư của cổ phiếu doanh thu ít hơn các phương thức đầu tư khác.
Xây dựng một danh mục đầu tư chỉ gồm những cổ phiếu có mức trả cổ tức cao nhất
khá đơn giản. Việc duy trì nó thậm chí còn dễ dàng hơn, bởi vì các nhà đầu tư
doanh thu sẽ vẫn nắm giữ cổ phiếu của họ nếu tiếp tục được nhận cổ tức đúng hạn.
Các kỹ năng số học hay kỹ năng đọc biểu đồ cũng không thực sự cần thiết trừ khi
bạn muốn vẽ biểu đồ tăng trưởng cổ tức thường niên. Bạn cũng không cần tìm hiểu
quá nhiều thông tin tối mật để tìm ra những công ty lớn, ổn định, có uy tín cao
sẵn sàng trả cổ tức!
Điểm khác biệt duy nhất
giữa biểu đồ PQ của nhà đầu tư doanh thu và nhà đầu tư tăng trưởng doanh thu là
kỳ vọng lợi nhuận ở nhà đầu tư tăng trưởng doanh thu cao hơn.
Quỹ dành cho nhà
đầu tư doanh thu
Hầu như mỗi quỹ đầu tư
gia đình đều có một hoặc nhiều quỹ doanh thu hoặc quỹ tăng trưởng doanh thu. Chỉ
cần nhìn tên hoặc mục đích của quỹ, bạn sẽ biết được đó là quỹ nào.
Tìm kiếm cổ phiếu doanh thu
Để tìm kiếm cổ phiếu doanh thu, bạn hãy sử dụng những tiêu
chí sau:
•
Có
mức sinh lợi cổ tức cao: Mức sinh lợi cổ tức là cổ tức hàng năm được chia theo
giá cổ phiếu. Nó cũng có thể được gọi là phần trăm sinh lợi hay tỷ lệ cổ tức,
tùy theo cách gọi của người cung cấp
dữ liệu.
•
Tính
ổn định của cổ tức: Bao lâu thì công ty trả cổ tức một lần? Công ty có quên trả
cổ tức trong một quý hay thậm chí là lâu hơn
không?
Các nhà đầu tư tăng trưởng và doanh thu cần có thêm những
tiêu chí sau:
•
Tỷ
lệ tăng trưởng cổ tức trong quá khứ cao: Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức trước đây cao
sẽ tạo cho bạn niềm tin rằng công ty sẽ tiếp tục tăng cổ tức;
•
Tính
ổn định của mức tăng trưởng cổ tức cao: Sử dụng công cụ tìm kiếm để tìm những
công ty có cổ tức tăng liên tục trong vòng năm đến mười năm qua. Bạn có thể tìm
hiểu xem bao lâu công ty lại tăng cổ tức một
lần;
•
Mức
tăng trưởng lợi nhuận ước tính cao: Cổ tức thường được trả từ lợi nhuận. Vì thế,
tăng trưởng lợi nhuận đồng nghĩa với tăng trưởng cổ tức.
Lời khuyên để đầu tư doanh thu thành công:
1. Tìm kiếm những công ty có lịch sử
tăng trưởng cổ tức: Những công ty như vậy thường có một lịch sử đáng tự hào và
sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục duy trì lịch sử
đó;
2. Không nên đầu tư tập trung vào công
ty trả cổ tức cao một lần: Đôi khi các công ty trả cổ tức cao một lần là do có
một sự kiện bất thường xảy ra. Cổ tức trả một lần có thể phản ánh mức sinh lợi
cổ tức cao bất thường, vì thế hãy kiểm tra kỹ lại lịch sử trả cổ tức để tránh vấn
đề này;
3. Cảnh giác trước những công ty có mức
sinh lợi cổ tức quá cao: Những cổ phiếu có mức sinh lợi cổ tức cao hơn hẳn mức
trung bình của thị trường hầu như luôn gặp phải rủi ro nghiêm trọng khiến công
ty buộc phải tìm cách giảm thiểu hoặc loại bỏ cổ tức;
4. Luôn luôn xem xét tính an toàn của cổ
tức: Một trong những điều bạn luôn phải cảnh giác khi là một nhà đầu tư doanh
thu đó là sức mạnh của công ty và tính an toàn của cổ tức. Một trái phiếu được
đánhgiá cao thể hiện sức mạnh và tính lâu bền của công ty. Một công ty có uy
tín với cổ tức an toàn cũng đồng nghĩa rằng cổ tức của công ty đó sẽ tiếp tục
được duy trì và có thể sẽ tăng.
Vector Vest đưa ra một bản tổng kết cổ phiếu miễn phí có bao gồm đánh giá tính
an toàn cổ tức hoặc bạn có thể trả tiền cho dịch vụ đánh giá cổ phiếu như
S&P, Moody’s hay Value Line để có được thông tin chi tiết hơn. Value Line
và Vector Vest coi tính an toàn của cổ tức là một tiêu chí để chọn lựa cổ phiếu.
GIAO DỊCH CHỦ ĐỘNG: MIỆT MÀI VÀ NÁO NHIỆT
Giao dịch chủ động được
coi là phương thức đầu tư kỹ thuật hoặc tăng tốc ở mức độ cao nhất. Trong khi
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng hoặc kỹ thuật thực hiện vài giao dịch mỗi tháng,
thì nhà đầu tư chủ động có thể thực hiện vài giao dịch mỗi ngày hoặc thậm trí
thực hiện vài giao dịch trong một giờ đồng hồ. Mục đích của nhà đầu tư theo
phong cách này là kiếm được mức lợi nhuận nhỏ (đôi khi là rất nhỏ) trên hàng chục
hoặc hàng trăm giao dịch mỗi tuần. Các nhà giao dịch chủ động có thể hoặc không
phải là một nhà đầu tư kỹ thuật.
Một số nhà giao dịch chủ
động phản bác rằng họ không bao giờ nghiên cứu biểu đồ cổ phiếu mà chỉ phụ thuộc
vào giá niêm yết của cổ phiếu trong khi những nhà đầu tư khác thường tin tưởng
tuyệt đối vào biểu đồ, sử dụng nhiều công cụ dự báo kỹ thuật để giao dịch trong
ngày hoặc trong dài hạn.
Hoạt động giao dịch chủ động
bao gồm rất nhiều phương pháp và chiến lược đầu tư mà chúng ta sẽ không bàn đến
trong cuốn sách này, nhưng chúng ta sẽ đề cập đến ba hình thức riêng biệt của
giao dịch chủ động: giao dịch trong ngày, giao dịch dài hạn và giao dịch có vị
thế.
Giao dịch trong ngày
Giao dịch trong ngày là
phương thức giao dịch chủ động nhất. Định nghĩa về người giao dịch trong ngày
điển hình là người chỉ giữ cổ phiếu trong một ngày. Người giao dịch trong ngày
có thể giữ phiếu trong một phút, thậm chí ít hơn hoặc có thể trong một giờ hoặc
lâu hơn, nhưng tất cả các cổ phiếu sẽ bị đóng trước khi ngày giao dịch kết
thúc.
Giao dịch trong ngày xuất
hiện sau cuộc khủng hoảng thị trường năm 1987, khi Uỷ ban Hối đoái và Chứng
khoán yêu cầu Nasdaq thay đổi cách thức bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ. Phương pháp
mới, Thực thi lệnh Nhỏ (SOES), buộc các nhà tạo lập thị trường phải tự động thực
hiện đầy đủ lệnh từ các nhà đầu tư cá nhân, thay vì trì hoãn hoặc phớt lờ như họ
vẫn làm trước đây. Những nhà giao dịch trong ngày được gán cho cái tên “Kẻ cướp
SOEs” bởi vì họ đã “ăn trộm phần lợi nhuận chênh lệch” - phần chênh lệch giữa
giá mua và giá bán - từ tay các nhà tạo lập thị trường Nasdaq. Họ thoả mãn với
việc kiếm lợi nhuận chỉ bằng một phần sáu điểm trên mỗi giao dịch. Nhưng sau
đó, họ biến phần lợi nhuận này thành một món lợi. Họ thực hiện những giao dịch
lớn và thường xuyên. Qua thập kỷ tiếp theo, những quy tắc được Uỷ ban Hối đoái
và Chứng khoán thêm vào cùng với những tiến bộ về công nghệ và mạng đã khiến
các nhà giao dịch không chuyên, các sàn giao dịch trong ngày trên khắp cả nước
tiếp cận với phương pháp này.
Thời kỳ hoàng kim của
giao dịch trong ngày là kỷ nguyên dotcom. Các nhà giao dịch trong ngày bị coi
là những kẻ cực kỳ bất ổn đã cai trị thị trường trong suốt thời gian đó. Cuộc
khủng hoảng kỷ nguyên dot.com đã quét sạch phần lớn những nhà giao dịch không
chuyên, nhưng giao dịch trong ngày vẫn tiếp tục trụ lại. Do về mặt ý nghĩa, thuật
ngữ “giao dịch trong ngày” có phần hơi tiêu cực nên giờ đây, hầu hết những nhà
giao dịch này thích được gọi bằng cái tên đơn giản “nhà giao dịch chủ động”.
Giao dịch dài hạn
Nhà giao dịch dài hạn là
người giao dịch trong ngày kiên nhẫn hơn và có quỹ thời gian dài hơn. Trong khi
nhà giao dịch trong ngày chính thống có thể thực hiện 50 hoặc 100 giao dịch
trong một ngày và dừng các hoạt động giao dịch vào cuối ngày, thì nhà giao dịch
dài hạn chỉ thực hiện một vài giao dịch trong một tuần và tìm kiếm lợi nhuận ở
mức vài điểm trên một cổ phiếu. Một nhà giao dịch dài hạn điển hình nắm giữ cổ
phiếu từ một đến năm ngày nhưng thường kết thúc vào ngày cuối tuần.
Giao dịch có vị thế
Một nhà giao dịch có vị
thế đơn giản là một nhà giao dịch dài hạn với quỹ thời gian dài hơn, thường giữ
vị thế trong vòng mười ngày hoặc hơn. Giao dịch có vị thế hầu như không mấy
khác biệt so với phương thức đầu tư kỹ thuật hoặc theo đà tăng trưởng.
Sử
dụng những nhà môi giới trực tiếp qua mạng
Thông thường, các nhà
giao dịch chủ động thường thực hiện giao dịch của họ thông qua người môi giới
trực tiếp bởi vì họ phải tiến hành đồng thời nhiều giao dịch khác nhau. Những
nhà môi giới này có một phần mềm giao dịch đặc biệt cho phép một nhà giao dịch
có thể đặt giao dịch trực tiếp thông qua một mạng lưới thông tin điện tử (ECN),
thay vì thực hiện giao dịch qua một nhà tạo lập thị trường được lựa chọn. Thanh
toán cho dòng chu chuyển lệnh là một thông lệ pháp lý, nhưng nó có thể làm tăng
chi phí cho một giao dịch từ 6 tới 12 xu trên một cổ phiếu hoặc cao hơn. Khi bạn
đặt mục tiêu kiếm nhiều khoản lợi nhuận “tí hon”, thì việc giảm giá 6 hay 12 xu
trên một cổ phiếu cũng tạo nên sự khác biệt rất lớn giữa lợi nhuận và thua lỗ.
Biểu đồ PQ của nhà giao dịch chủ động
Giao dịch chủ động - cụ
thể là giao dịch trong ngày - là giao dịch cực kỳ căng thẳng và luôn có xu hướng
hoạt động. Những nhà giao dịch trong ngày luôn dán mắt vào màn hình máy tính
trong suốt ngày giao dịch, sẵn sàng hành động khi có tín hiệu nên gia nhập hay
thoát khỏi thị trường.
Biều đồ 9-3 là biểu đồ PQ
dành cho một nhà giao dịch trong ngày thuần tuý. Điểm số cao nhất dành cho tính
kỷ luật, biết chấp nhận rủi ro, chấp nhận thay đổi, lợi nhuận kỳ vọng và cam kết
về mặt thời gian. Điểm số thấp nhất dành cho lòng kiên nhẫn và quỹ thời gian. Kỹ
năng đọc biểu đồ là cần thiết trong hầu hết các trường hợp nhưng kỹ năng số học
lại không thực sự cần thiết. Mức độ tự tin khi đầu tư tương đối là cần thiết để
lựa chọn một phương pháp và nghiên cứu kỹ nó. Khi đã biết rõ về phương pháp của
mình, bạn phải tin và kiên định làm theo những dấu hiệu mà phương pháp đó phát
ra. Cho tới nay, yêu cầu quan trọng nhất đối với nhà giao dịch chủ động là lòng
kiên định, kỷ luật cao với phương pháp đã lựa chọn.
Giao dịch dài hạn không
đòi hỏi khả năng chịu đựng rủi ro và cam kết về mặt thời gian nhiều như giao dịch
trong ngày. Biểu đồ PQ của nhà giao dịch gần giống biểu đồ của nhà đầu tư theo
đà tăng trưởng.
Lời khuyên để giao dịch chủ động thành công
1. Tính kiên định, kỷ luật cao: Kiên định
là đức tính quan trọng trong bất kỳ phương pháp đầu tư nào, nhưng nó đặc biệt
quan trọng trong phương thức giao dịch chủ
động;
2. Sử dụng người môi giới trực tiếp qua
mạng: Có thể bạn sử dụng phần mềm rất giỏi, nhưng một nhà môi giới trực tiếp
qua mạng là giải pháp tối ưu để lệnh thực hiện được tiến hành tốt nhất;
NHÀ
ĐẦU TƯ KẾT HỢP: CÁC PHONG CÁCH KẾT HỢP
Đọc đến đây, có lẽ bạn đã
bắt đầu thấy mình bị cuốn vào nhiều phương pháp đầu tư khác nhau. Có thể những
cổ phiếu có mức tăng trưởng cao thu hút bạn, nhưng bạn cũng thích ý tưởng “săn”
cổ phiếu hiệu quả; hoặc có thể phương pháp đầu tư giá trị hấp dẫn phần bảo thủ
trong con người ban, nhưng bạn thiếu lòng kiên nhẫn để phải chờ đợi hàng năm liền
mới có được “kết quả”. Nếu bạn có xu hướng thích dùng nhiều phương pháp đầu tư,
bạn có thể kết hợp các phương pháp đầu tư lại thành một phương pháp kết hợp.
Có nhiều phương thức kết
hợp khác nhau, đơn giản nhất là kết hợp một phương pháp đầu tư chính với một phần
của một phương pháp khác. Các nhà đầu tư giá trị có thể yêu cầu cổ phiếu giá trị
phải bộc lộ một vài đặc điểm tăng tốc trước khi mua nó. Tất nhiên, khi đó, bạn
sẽ sẵn sàng chấp nhận chỉ số P/E cao hơn mức một nhà đầu tư giá trị bình thường
mong muốn.
Hai chiến lược đề cập đến
ở phần cuối của chương này –đầu tư từ trên xuống dưới và giao dịch nội bộ - có
thể kết hợp với bất kỳ phương pháp nào. Bạn có thể là một nhà đầu tư giá trị từ
trên xuống dưới hoặc một nhà đầu tư tăng trưởng từ trên xuống dưới có sử dụng
giao dịch nội bộ như một điều kiện chính yếu để quyết định mua cổ phiếu.
Phương pháp đầu tư kỹ thuật
cũng có thể kết hợp với bất kỳ phương pháp nào và trên thực tế, chúng tôi gợi ý
rằng dù đầu tư theo phong cách nào, bạn cũng nên sử dụng các công cụ hay phương
pháp dự báo kỹ thuật để thấy được các dấu hiệu gia nhập hay rút lui khỏi thị
trường. Những nhà phân tích kỹ thuật thuần tuý có thể kết hợp các phương pháp bằng
cách áp dụng lý thuyết kỹ thuật của họ vào cổ phiếu có mức tăng trưởng cao hoặc
thậm chí cổ phiếu giá trị hoặc cổ phiếu có đà tăng trưởng đáng chú ý nhất. Có một
nhược điểm khi kết hợp đầu tư kỹ thuật với các phương pháp đầu tư khác: Bản
thân phương pháp đầu tư kỹ thuật đòi hỏi cam kết rất chặt chẽ về mặt thời gian
rất cho nên nếu bạn thêm vào yêu cầu lựa chọn cổ phiếu tăng trưởng hoặc giá trị
hoặc tăng tốc, thì điều đó đồng nghĩa với việc bạn sẽ phải bỏ thêm thời gian để
xây dựng và duy trì danh mục đầu tư của mình.
Ví dụ về hai phương pháp
đầu tư kết hợp được xác định rõ ràng và phổ biến đủ để trở thành những cái tên
dễ dàng nhận ra là nhà đầu tư tăng trưởng dưới giá trị và nhà đầu tư tăng trưởng
và tăng tốc hay nhà đầu tư CANSLIM. Ngoài ra còn có rất nhiều các phương pháp đầu
tư kết hợp khác nữa.
Phương thức kết hợp tăng trưởng dưới giá trị
Các nhà đầu tư tăng trưởng
- những người thường do dự trước mức giá cao của cổ phiếu tăng trưởng có xu hướng
tìm kiếm những cổ phiếu dưới giá trị có tiềm năng tăng trưởng tốt. Về bản chất,
họ chính là những nhà đầu tư GARP bởi vì họ đang tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng ở
mức giá hợp lý. Để tìm những cổ phiếu này, nhà đầu tư tăng trưởng dưới giá trị
có thể chọn lọc để loại bỏ những cổ phiếu có tỷ số P/E cao hoặc những cổ phiếu
có tỷ lệ giá trên mức tăng trưởng doanh thu cao.
Biểu đồ PQ của một nhà đầu tư dưới giá trị
Biểu đồ PQ dành cho một
nhà đầu tư kết hợp phản ánh những đặc điểm của các phương pháp đã kết hợp nên
nó. Biểu đồ PQ dành cho nhà đầu tư tăng trưởng dưới giá trị (Biểu đồ 9-4) giữ lại
ba trong số các đặc điểm của nhà đầu tư tăng trưởng thuần tuý (kỷ luật, kỳ vọng
và kỹ năng đọc biểu đồ), những phẩm chất còn lại sẽ giống các phẩm chất của một
nhà đầu tư giá trị.
Phương
thức đầu tư kết hợp tăng trưởng và tăng tốc
Một trong những phương thức
đầu tư kết hợp phổ biến đó là phương pháp đầu tư tăng trưởng và tăng tốc, tìm
kiếm những cổ phiếu tăng trưởng đã được khám phá đầy đủ và thể hiện khả năng
tăng tốc. Đây là một phương thức phổ biến được William J. O’Neil, chủ bút tờ
Investor’s Business Daily, gọi là CANSLIM trong cuốn sách How to Make Money in
Stocks: A Winning System in Good Times or Bad của ông. Mỗi chữ cái trong từ viết
tắt thể hiện một đặc điểm của một cổ phiếu thành công, dựa trên chiến lược
CANSLIM. Công thức của
phương pháp này được tóm
tắt dưới đây (để biết thêm chi tiết, bạn có thể truy cập website: www.canslim.net hay tìm đọc tác phẩm của O’Neil).
•
Lợi
nhuận hiện thời (Current earnings): Mức lợi nhuận hiện thời phải cao tối thiểu
là 20%;
•
Lợi
nhuận thường niên (Annual earnings): Mức tăng trưởng lợi nhuận trung bình trong
năm năm phải nằm ở mức từ 15 đến 20%;
•
Dịch
vụ mới, sản phẩm mới, công nghệ mới (New services, new products, or new highs):
Những sản phẩm mới hay dịch vụ mới là động lực thúc đẩy giá cổ phiếu tăng cao;
•
Cổ
phiếu hiện hành (Shares outstanding or supply): O’Neil đưa ra lời khuyên mua cổ
phiếu có số lượng phát hành ít hơn 30 triệu và chủ yếu là do ban quản lý cấp
cao sở hữu.
•
Nhà
lãnh đạo hay người lạc hậu? (Leader or laggard): Những con báo hiếm khi thay đổi
vị trí của chúng và những người chậm tiến hiếm khi trở thành nhà lãnh đạo. Một
cổ phiếu CANSLIM sẽ là cổ phiếu đứng đầu thị
trường;
•
Sở
hữu theo tổ chức (Institutional ownership): Cổ phiếu CANSLIM là cổ phiếu thường
được các nhà đầu tư theo tổ chức rót tiền vào. Chiến lược CANSLIM cần có ít nhất
một vài nhà đầu tư như thế.;
•
Định
hướng thị trường (Market direction): Thị trường nên di chuyển theo hướng đi lên
hoặc có xu hướng đi lên. Chiến lược CANSLIM đưa ra một số cách thức để đánh giá
tình trạng của thị trường.
Biểu đồ PQ của nhà đầu tư tăng trưởng và tăng tốc
(CANSLIM)
Biểu đồ PQ dành cho nhà đầu
tư CANSLIM kết hợp các dấu hiệu của nhà đầu tư tăng trưởng và tăng tốc (Biểu đồ
9-5). Nhà đầu tư CANSLIM giữ lại bốn đặc điểm của nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
thuần tuý (kỷ luật, kỳ vọng lợi nhuận, cam kết thời gian và kỹ năng đọc biểu đồ)
và ba đặc điểm của nhà đầu tư tăng trưởng thuần tuý (chịu đựng rủi ro, chịu đựng
sự biến động và niềm tin đầu tư). Những phẩm chất khác là sự kết hợp giữa tăng
trưởng và tăng tốc.
Lời
khuyên để đầu tư kết hợp thành công
Đầu tư kết hợp tương tự
như việc mặc một bộ comple truyền thống: Nó cho phép bạn tạo ra một kiểu áo vừa
vặn với từng góc cạnh và đường cong trong tính cách đầu tư của bạn. Hãy nhớ rằng
nghệ thuật trở thành một nhà đầu tư kết hợp thành công đó là lựa chọn một
phương pháp làm phương pháp nền tảng và sau đó điều chỉnh nó bằng những nhân tố
thích hợp từ những phương pháp đầu tư khác.
1. Kỷ luật: Cũng như đối với bất kỳ
phương thức đầu tư nào khác, chìa khoá của sự thành công chính là duy trì tinh
thần kỷ luật và làm theo các quy tắc.
2. Không cố gắng kết hợp gượng ép các
phương thức đầu tư không thích hợp với nhau: Bạn không nên kết hợp đầu tư giá
trị và tăng tốc cao với những cổ phiếu tăng trưởng phi thường.
3. Luôn lưu ý tới cách thức gây ảnh hưởng
của phương thức đầu tư phụ lên phương thức đầu tư chính: Khi kết hợp các phong
cách đầu tư với nhau, hãy tự đặt câu hỏi liệu những đặc điểm của phương thức đầu
tư phụ có tác dụng tăng cường hay làm suy giảm lợi thế của phương pháp đầu tư
cơ bản. Ví dụ như, mua cổ phiếu tăng trưởng với khả năng tăng tốc lớn sẽ làm
tăng nguy cơ rủi ro của phương thức đầu tư vốn dĩ đã rất rủi ro (đọc lại phần
viết về nguy cơ rủi ro khi chỉ số P/E giảm trong Chương 1). Trong khi đó, yêu cầu
cổ phiếu giá trị phải thể hiện một chút khả năng tăng tốc trước khi bạn ra quyết
định mua có thể sẽ giúp bạn giảm thiểu thời gian phải bỏ ra.
PHƯƠNG THỨC LƯỚT SÓNG: TRÔI THEO DÒNG CHẢY
Các phương thức đầu tư
tăng trưởng, giá trị và tăng tốc cho ra kết quả khác biệt trong các thị trường
khác nhau và vì vậy lúc được các nhà đầu tư ưa chuộng lúc không. Phương pháp đầu
tư theo đà tăng trưởng là phương pháp “nóng” trong suốt giai đoạn bùng nổ kỷ
nguyên dot.com năm 1998 và 1999. Sau khi bong bóng vỡ tung vào mùa xuân năm
2000, giá cổ phiếu tụt nhanh trên tất cả các thị trường cổ phiếu. Kết quả là, đầu
tư giá trị trở thành phong cách thịnh hành. Mức giá trị vốn hóa thị trường cũng
xoay chiều theo (đọc lại Chương 8). Nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường
trung bình là tâm điểm chú ý thời kỳ đầu năm 2001, tiếp theo mối quan tâm chuyển
sang nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ trong hai tháng trước khi
sự kiện 11 tháng 9 xảy ra. Ngay sau vụ tấn công khủng bố, mối quan tâm bắt đầu
chuyển sang những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn, không bị ảnh hưởng
nhiều bởi cuộc khủng bố.
Bạn có thể thu về lợi nhuận
lớn nhất khi đầu tư vào những cổ phiếu được ưa chuộng chỉ đơn giản là vì tiền
đang đổ dồn vào những cổ phiếu đó và cầu đang đẩy giá lên cao hơn. Hiển nhiên
là khi một nhà đầu tư chuyển sang những cổ phiếu loại này, họ sẽ làm tốt hơn hoặc
ít nhất cũng sẽ kiếm tiền nhanh hơn một nhà đầu tư vẫn trung thành với một
phương thức đầu tư và một mức giá trị vốn hóa thị trường nhất định.
Chúng ta gán cho phương
thức đầu tư này cái tên phương pháp lướt sóng. Khi phong cách đầu tư giá trị thịnh
hành, nhà đầu tư lướt sóng chính là nhà đầu tư giá trị. Khi cổ phiếu tăng trưởng
chiếm lĩnh thị trường, anh ta sẽ chuyển sang phong cách đầu tư tăng trưởng. Khi
đầu tư theo đà tăng trưởng là cái tên của trò chơi đương đại, thì anh ta sẽ trở
thành một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng. Khi những cổ phiếu có giá trị vốn hóa
thị trường lớn dẫn đường, thì đầu tư theo phương pháp lướt sóng đồng nghĩa với
việc xây dựng một danh mục đầu tư gồm những cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường
lớn. Ngược lại, khi cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ trở thành mốt,
anh ta sẽ chuyển hướng quan tâm sang những cổ phiếu này. Nhà đầu tư lướt sóng
thay đổi phong cách và mức giá trị vốn hóa thị trường tới bất kỳ nơi đâu được
ưa chuộng nhất và nhờ thế, tiềm năng thu được lợi nhuận tăng cao đồng thời thời
gian chờ đợi lợi nhuận giảm xuống.
Phong cách này nghe qua
có vẻ như là phong cách đầu tư tối ưu nhất đúng không? Nhưng chúng ta cũng nên
hiểu rõ rằng lướt sóng cũng là phương thức có yêu cầu khắt khe nhất và phức tạp
nhất. Trước hết, bạn cần tạo cho mình tâm lý không hướng tới bất kỳ phương pháp
hay quy mô giá trị vốn hóa thị trường nào, đồng thời bạn phải thành thạo tất cả
các phương thức đó. Ban cần có niềm tin đầu tư cực kỳ lớn bởi vì bạn phải đánh
giá thật chắc chắn về cả ba phương thức đầu tư. Đầu tư lướt sóng cũng đòi hỏi rất
nhiều thời gian. Bạn không chỉ phải dành thời gian cho phương thức đầu tư hiện
tại, xây dựng và duy trì danh mục đầu tư, mà còn phải luôn ở trên đỉnh của thị
trường và dành thời gian nghiên cứu xem phương thức đầu tư và thị trường vốn
nào đang được ưa chuộng cũng như quan sát tất cả các công cụ kỹ thuật dự báo để
chắc chắn là bạn có thể chuyển sang phương pháp đầu tư hay mức giá trị vốn hóa
thị trường triển vọng mau lẹ nhất.
Nếu bạn đáp ứng được đẩy
đủ yêu cầu về thời gian và trí thông minh, lợi nhuận dành cho bạn chắc chắn sẽ
cao hơn do tính tức thì của khoản tiền lời. Rủi ro trong phong cách này cũng
cao hơn bởi vì bạn chắc chắn không thể thành thạo tất cả các phương thức và có
khả năng xác định thật chính xác “phương thức nào và mức giá trị vốn hóa thị
trường nào đang thịnh hành”.
Lòng kiên nhẫn dành cho đầu
tư lướt sóng thường ít hơn các phương thức đầu tư khác bởi vì nếu cổ phiếu tăng
trưởng hay giá trị là những thứ đang được thị trường ưa chuộng, thì thời gian để
gặt hái được thành công sẽ được rút ngắn đi rất nhiều.
Biểu đồ PQ dành cho nhà đầu tư lướt sóng
Biểu đồ PQ 9-6 thể hiện tất
cả những phẩm chất cần có của một nhà đầu tư lướt sóng: tinh thần kỷ luật, kỳ vọng
lợi nhuận, cam kết thời gian và niềm tin đầu tư cao; kỹ năng định lượng ở mức
trung bình, kỹ năng đọc biểu đồ, khả năng chịu biến động và khả năng chịu rủi
ro phụ thuộc vào phong cách đầu tư nào; còn lòng kiên nhẫn và quỹ thời gian ít
quan trọng hơn hơn.
Các
chiến lược trong đầu tư lướt sóng
Các chiến lược trong đầu
tư lướt sóng rất đơn giản: Xác định phương pháp đầu tư nào và mức giá trị vốn
hóa thị trường nào đang được ưa chuộng, sau đó áp dụng các quy tắc dành cho
phương pháp đó. Standard & Poor’s và Frank Russell đưa ra một loạt các chỉ
số đo lường kết quả hoạt động của những phương pháp đầu tư và mức giá trị vốn
hóa thị trường cụ thể (xem Bảng 9-1), qua đó sẽ cho bạn biết loại nào đang thịnh
hành và loại nào không. Có những chỉ số Russell và S&P khác, nhưng hầu hết
đều quá rộng khi phải theo dõi một thị trường vốn cụ thể. Thêm vào đó, bạn có
thể sử dụng các quỹ ETF được trình bày trong Bảng 9-2 làm chỉ báo khi đầu tư
theo phong cách tăng trưởng, giá trị và đầu tư vào ba loại nguồn giá trị vốn
hóa thị trường cơ bản.
Những chỉ số và quỹ ETF này
nói lên rất nhiều điều khi một phương pháp đầu tư hay nguồn giá trị vốn hóa thị
trường lên tới đỉnh cao nhất và đang dần trở nên thịnh hành. Ví dụ như, khi cổ
phiếu giá trị bắt đầu giảm trên toàn bộ các thị trường cổ phiếu, bạn sẽ biết đó
chính là thời điểm chuyển giao. Chuyển sang loại nào chính là vấn đề của bạn. Bạn
chỉ cần quan tâm tới những chỉ số đầu tiên và quỹ ETF để tìm ra.
Về phương pháp đầu tư
theo đà tăng trưởng, bạn có thể giả định là cổ phiếu có đà tăng trưởng đang được
ưa chuộng khi thị trường di chuyển hết sức mau lẹ và có nhiều tiền đang đổ vào
cổ phiếu. Những thị trường tăng tốc gần đây nhất xuất hiện vào năm 1997, 1998
và 1999, khi cổ phiếu tăng bất thường không tuân theo các đặc điểm giá trị hoặc
tăng trưởng của chúng. Và những cổ phiếu này không chỉ đơn thuần là các cổ phiếu
của kỷ nguyên dotcom. Chứng cuống tín đối với chỉ số đầu tư đã làm dấy lên khả
năng tăng tốc cho một thị trường vốn đã nóng. Rủi ro trong thị trường này là rất
cao bởi vì chỉ số P/E bị bơm phồng quá mức.
Các
quỹ lướt sóng
Mặc dù không có bất kỳ quỹ
tương hỗ nào thừa nhận có chuyển đổi phương thức đầu tư trong mục đích đầu tư của
họ, nhưng bạn có thể thấy rằng những quỹ hoạt động mạnh mẽ nhất với mục đích
làm tăng nguồn vốn lên cao nhất trong ngắn hạn về bản chất đều là những “nhà lướt
sóng tài ba”. Phương thức quản lý quỹ kiểu này hết sức linh hoạt.
Để áp dụng phương thức đầu
tư lướt sòng vào quỹ tương hỗ, nhà quản lý có thể chuyển đổi từ phương thức đầu
tư này sang phương thức đầu tư khác trong phạm vi quỹ gia đình. Khi phương thức
đầu tư giá trị đang thịnh hành, hãy mua một quỹ có giá trị; khi phương thức đầu
tư tăng trưởng thịnh hành, hãy mua một quỹ tăng trưởng. Thậm chí bạn có thể kết
hợp phương thức đầu tư đang thịnh hành với quy mô giá trị vốn hóa thị trường
đang được ưa chuộng. Ví dụ như, kết hợp phong cách đầu tư giá trị với mức giá
trị vốn hóa thị trường trung bình hay phong cách đầu tư tăng trưởng giá trị vốn
hóa thị trường nhỏ. Phương thức đầu tư lướt sóng có thể áp dụng cho quỹ ETF
theo cách tương tự.
Lời khuyên để đầu tư lướt sóng thành công
1. Có kiến thức về cả ba phương pháp đầu
tư cơ bản: Nếu bạn muốn trở thành một nhà đầu tư lướt sóng, bạn phải thành thạo
cả ba phương pháp đầu tư: phương pháp đầu tư tăng trưởng, giá trị và tăng tốc.
2. Biết rõ phong cách nào đang thịnh
hành và phong cách nào đang lạc hậu: Theo dõi xu hướng bằng cách theo sát các
quỹ ETF và các chỉ số trong Bảng 9-1 và 9-2. Nếu một phương pháp đầu tư hoặc mức
giá trị vốn hóa thị trường cho thấy tình trạng thua lỗ kéo dài trong vài tuần
hoặc vài tháng liên tiếp, thì có thể nó đang xoay chuyển dần sang hướng không
còn được ưa chuộng nữa. Một cách khác nữa để theo dõi xu hướng của thị trường
đó là sử dụng Bản đồ thị trường tiền tệ thông minh (Smart Money Market Map) tại
trang web www.smartmoney.com. Bản đồ này biểu diễn những nhóm ngành và cổ phiếu bằng các khối màu với
những kích cỡ khác nhau. Kích cỡ thể hiện quy mô giá trị vốn hóa thị trường của
công ty, sắc màu thể hiện liệu cổ phiếu đang hoạt động tốt hơn hay kém hơn mức
trung bình của thị trường. Nó có thể tuỳ biến với quỹ ETF và các chỉ số thị trường
tại Bảng 9-1 và 9-2 để cung cấp cho bạn kết quả nhanh chóng về loại cổ phiếu
đang thịnh hành và loại nào không.
NHỮNG CHIẾN LƯỢC PHỔ BIẾN DÀNH CHO CÁC PHƯƠNG THỨC ĐẦU
TƯ CHÍNH VÀ PHỤ
Bất kể phương pháp đầu tư
của bạn là gì, bạn vẫn luôn có hai chiến lược để sử dụng kết hợp với hầu hết
các phương pháp còn lại: Phương pháp đầu tư từ trên xuống dưới và giao dịch nội
bộ.
Phương pháp đầu tư từ trên xuống dưới: Theo sát tiền
Phương pháp đầu tư từ
trên xuống dưới có nghĩa là quan tâm trước hết tới hành vi của thị trường rộng
hơn, ví dụ như trên toàn thể đất nước mà bạn đang đầu tư tại đó và sau đó xét
tiếp tới các thị trường cổ phiếu, tới khu vực, tới nhóm ngành, rồi tới cổ phiếu.
Thứ mà bạn tìm kiếm là khu vực có kết quả hoạt động tốt nhất tại mỗi mức độ. Lý
thuyết đằng sau chiến lược này là kết quả hoạt động của một cổ phiếu phụ thuộc
chủ yếu vào mức độ hoạt động chung của khu vực ngành hay của nhóm ngành. Thực tế,
một nghiên cứu do tờ Investor’s Business Daily trích dẫn cho thấy 37% của cổ
phiếu có quan hệ trực tiếp với kết quả hoạt động của ngành có cổ phiếu đó và
12% trong đó là do sức mạnh của toàn bộ ngành chứa cổ phiếu đó. Như vậy, việc
chắc chắn rằng cổ phiếu bạn mua đang nằm trong những ngành và khu vực “nóng nhất”
hay ít nhất là không nằm trong ngành ảm đạm quả là một ý kiến rất hay.
Bạn có thể nghĩ tới
phương thức đầu tư từ trên xuống dưới như một biểu đồ từ cao xuống thấp.
Đỉnh chóp sẽ là đất nước,
dành cho các nhà đầu tư nội địa. Đối với các nhà đầu tư toàn cầu, nó có thể là
bất kỳ quốc gia nào có nền kinh tế hoạt động tốt nhất tại thời điểm hiện tại.
Mức tiếp theo sẽ là thị
trường cổ phiếu. Ở Mỹ, các nhà đầu tư cổ phiếu có thể lựa chọn giữa thị trường
Chứng khoán New York và thị trường Chứng khoán Nasdaq. Nếu chúng hoạt động
tương tự nhau, bạn có thể bỏ qua bước này.
Mức thứ ba là khu vực
kinh doanh, những khu vực lớn của nền kinh tế bao gồm: chăm sóc y tế, năng lượng
và công nghệ (tổng số có khoảng từ 12 đến 15 khu vực). Các khu vực thường xuyên
thay phiên nhau dẫn đầu tùy theo tình hình nền kinh tế và nhiều yếu tố khác nữa.
Mức thứ tư là nhóm ngành.
Có khoảng từ 100 đến 200 nhóm ngành trong phạm vi các khu vực ngành rộng. Khi bạn
tìm thấy khu vực có kết quả hoạt động tốt nhất, hãy tìm những nhóm ngành có kết
hoạt động tốt nhất trong khu vực đó.
Mức thứ năm là cổ phiếu.
Khi bạn đã xác định được đất nước, thị trường cổ phiếu, khu vực và nhóm ngành
có kết quả hoạt động tốt nhất, bạn đã sẵn sàng tìm kiếm những cổ phiếu tốt nhất
trong nhóm hoặc các nhóm ngành phù hợp với phương thức đầu tư của bạn. Nếu bạn
không trung thành với một mức giá trị vốn hóa thị trường nào, thì tại điểm này,
bạn nên giới hạn nghiên cứu của mình trong phạm vi giá trị vốn hóa thị trường
hiện đang được ưa chuộng.
Phương pháp đầu tư từ
trên xuống dưới về cơ bản dựa trên sự dẫn đầu luân phiên của các khu vực và
nhóm ngành. Sự luân phiên được ưa chuộng của khu vực và nhóm ngành có quan hệ mật
thiết với dòng chảy của dòng tiền do các tổ chức rót vào. Ví dụ, với nguồn giá
trị vốn hóa thị trường, ngoài giá trị thực tế của cổ phiếu cá nhân, tiền theo
tiền đổ vào các khu vực và các nhóm ngành khác nhau, tạo ra những làn sóng kết
quả hoạt động tốt có lợi cho cổ phiếu trong những nhóm ngành và khu vực đó. Đằng
sau sự luân phiên này chính là tình trạng lên xuống của nền kinh tế. Đặc trưng
là, khu vực luân phiêu trở thành được ưa chuộng bởi vì khu vực đó của nền kinh
tế chung đang hoạt động tốt do những sự kiện cụ thể. Ví dụ như, nếu tỷ lệ lãi
suất đang có xu hướng giảm, thì xu hướng dự báo sẽ chuyến hướng quan tâm sang
khu vực xây dựng nhà cửa, là khu vực đem lại lợi ích cho những ngành có liên
qua như người cho vay thế chấp, người bán đồ nội thất, nhà máy gỗ, v.v. Nếu niềm
tin của khách hàng lên cao do nền kinh tế đang bùng nổ, thì khu vực bán lẻ chắc
chắn cũng sẽ bùng nổ. Nhóm ngành cũng luân phiên được ưu tiên quan tâm bởi vì
ngành cũ đã không còn được quan tâm nữa. Những nhóm ngành không còn được quan
tâm nữa là mảnh đất màu mỡ cho đầu tư giá trị. Các nhà đầu tư bắt đầu nhận ra
có những giá trị rất tốt trong một khu vực hoặc nhóm ngành cụ thể và tiền bắt đầu
đồ vào đó, rồi sau đó, khu vực đó hoặc nhóm ngành đó lại trở thành nơi được ưa
chuộng.
Các nhóm ngành rất dễ
dàng thay đổi như nguồn giá trị vốn hóa thị trường bởi vì số lượng và tên các
khu vực và nhóm ngành phụ thuộc vào người phân nhóm. Smartmoney.com chia nền
kinh tế thành 11 khu vực và 120 nhóm ngành; tờ Investor’s Business Daily chia
miếng bánh thành gần 11 khu vực ngành và 197 nhóm ngành (xem Bảng 9-3).
Với nhiều khu vực và nhóm
ngành hơn, IBD đưa ra cách phân nhóm chính xác hơn. Ví dụ như, American Network
thuộc nhóm Phương tiện truyền thông đài/TV theo cách phân loại của IBD, là một
phần của Khu vực Giải trí. Trong bảng phân loại nhóm của Smartmoney.com,
American Network là một phần của nhóm rộng hơn rất nhiều, Truyền thông đại
chúng và Quảng cáo.
Ý tưởng đằng sau phương
pháp đầu tư từ trên xuống dưới đó là bạn có thể làm tăng phần doanh thu của
mình nếu bạn “Theo dòng tiền”. Hạn chế của phương pháp này là nếu bạn không cẩn
thận, thời điểm bạn nhảy vào có thể quá sớm và làn sóng có thể không đạt tới đỉnh
(xoay chuyển theo hướng tích cực) hoặc bạn có thể nhảy vào một làn sóng đã lên
tới đỉnh rồi bắt đầu xoay chuyển theo hướng tiêu cực và bỏ lỡ cơ hội.
Bạn có thể kết hợp đầu tư
từ trên xuống dưới với bất kỳ phong cách đầu tư nào. Đầu tiên, bạn xác định khu
vực và nhóm ngành có kết quả hoạt động tốt nhất, sau đó tìm kiếm trong khu vực
và nhóm ngành đó những cổ phiếu phù hợp với phương thức đầu tư của bạn. Có một
số trang web theo dõi kết quả hoạt động của các nhóm ngành. Nếu bạn sử dụng những
nguồn này, hãy chủ ý tới kết quả hoạt động hàng tuần và hàng tháng, chứ không
phải kết quả hoạt động hàng ngày. Tờ Investor’s Business Daily có cung cấp bảng
xếp loại nhóm, là một bảng xếp loại hỗn hợp trong một giai đoạn được tập hợp lại
để đưa ra một xếp hạng giao động giá.
Lời khuyên để đầu tư từ trên xuống dưới thành công
Chắc chắn rằng nhóm ngành
bạn lựa chọn đang có xu hướng đi lên, chứ không phải là đi xuống. Ví dụ, một
nhóm ngành đứng ở vị trí 90 trong tổng số các nhóm ngành, thì nhóm ngành này
hoàn toàn có thể giảm cũng như tăng. Hãy chắc chắn rằng bạn biết đích xác xu hướng
của nhóm ngành đó.
Không phớt lờ những nhóm
ngành không được ưa chuộng trong thời điểm hiện tại. Các nhóm ngành này vẫn có
thể là mảnh đất màu mỡ cho một số phương thức đầu tư nào đó, ví dụ như đầu tư
giá trị hay “bán khống”.
Giao dịch nội bộ: Làm theo thành viên công ty
Có thể khẳng định rằng những
người làm trong nội bộ các công ty hiếm khi mua cổ phiếu của chính công ty họ nếu
họ cho rằng nó đang có xu hướng đi xuống. Ngoại trừ khi thực hiện quyền lựa chọn
cổ phiếu của công ty, thành viên trong nội bộ chỉ mua cổ phiếu khi họ thấy công
ty đang có một tương lai đầy triển vọng. Đó có thể là bởi vì họ biết chi tiết về
một sự kiện nào đó không được công khai hoặc chỉ đơn giản là bởi vì họ nghĩ rằng
công ty đang có xu hướng hoạt động ngày một tốt đẹp hơn hoặc bởi vì họ nghĩ rằng
công ty đã không được định giá hợp lý. Đó là lý do tại sao việc người trong
công ty mua cổ phiếu chính là một dự báo rất khả quan về khả năng tăng giá cổ
phiếu.
Quyết định mua của người
trong công ty tất nhiên không phải là một công cụ dự báo hoàn hảo. Đôi khi những
sự việc không lường trước được có thể xảy ra, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
ban quản lý, như áp lực cạnh tranh bất ngờ, sự thất bại của sản phẩm hoặc lời
tuyên án bất lợi trong một vụ kiện quan trọng. Nhưng tóm lại, quyết định mua với
số lượng lớn của người trong công ty cho thấy giá cổ phiếu trong tương lai sẽ
đi theo chiều hướng tốt và thực tế thì một nghiên cứu tiến hành năm 1993 đã cho
thấy một nhóm cổ phiếu được người trong công ty mua với số lượng lớn đã có kết
quả vượt hẳn mức trung bình của thị trường tới 31 % điểm.
Một nghiên cứu khác tiến
hành năm 1976 cũng cho kết quả là những cổ phiếu được nội bộ công ty mua với số
lượng lớn đã có kết quả hoạt động vượt chỉ số S&P 500 tới gần 200 %. Tất
nhiên, chúng ta không bàn về hoạt động nội bộ phạm pháp. Các nội bộ doanh nghiệp
như bạn biết được yêu cầu phải giữ bí mật toàn bộ hoạt động giao dịch về cổ phiếu
của công ty đó với Uỷ ban Giao dịch Chứng khoán (SEC) trong vòng 10 ngày sau
khi người đầu tiên của tháng làm theo giao dịch. Thông tin đó sẽ được tung ra
trên mạng ngay khi nó được SEC xuất bản.
Quyết định mua nội bộ có
thể được sử dụng với bất kỳ phương pháp đầu tư nào. Trong một số chương trình
tìm kiếm bạn có thể gõ chữ “giao dịch nội bộ – insider trading” như một trong
những tiêu chuẩn và vì thế sẽ giới hạn được việc tìm kiếm của bạn trong phạm vi
cổ phiếu được người trong công ty mua với số lượng lớn. Nếu chương trình tìm kiếm
của bạn không có đặc điểm này, bạn có thể nhận được một danh sách những hoạt động
giao dịch nội bộ gần đây nhất đối với những cổ phiếu cụ thể tại CNBC.com hoặc
ThomsonFN.com. Một cách ngẫu nhiên, ThomsonFN.com đưa ra một “điểm mua” và một
“điểm bán” cho những nhà giao dịch nội bộ cá nhân. Một điểm mua là 60 hoặc cao
hơn cho thấy rằng cổ phiếu có khả năng tăng trong vòng sáu tháng tiếp theo quyết
định mua của người nội bộ; một điểm bán vào khoảng 60 hoặc hơn cho thấy cổ phiếu
sẽ giảm trong vòng sáu tháng theo sau quyết định bán của nội bộ.
Lời khuyên để thành công trong phương pháp giao dịch
theo nội bộ
Quyết định mua của thành
viên nội bộ thể hiện khả năng giá cổ phiếu sẽ tăng. Bạn có thể sử dụng điểm số
mua tại ThomsonFN, nếu có hoặc sử dụng đồ thị tại Phố Wall, ghi lại lịch sử
giao dịch của người trong công ty.
Mua cổ phiếu khi số lượng
mua của người trong công ty tăng. Hoạt động này là một dấu hiệu làm tăng niềm
tin về tiềm năng hoặc giá trị của công ty.
Đặc biệt chú ý tới quyết
định mua của những vị lãnh đạo câp cao của công ty. Quan chức tài chính là một
trong những người nội bộ đầy mánh khoé về mặt tài chính và thường là người bảo
thủ nhất, vì thế khi anh ta quyết định mua chứng khoaá của công ty thì đó có lẽ
là dấu hiệu tốt lành cho thấy cổ phiếu đang được định giá dưới giá trị.
Tìm kiếm những vụ mua bán
trên thị trưởng mở. Mua cổ phiếu trên thị trưởng mở là một dấu hiệu quan trọng
hơn hẳn việc thực hiện quyền chọn cổ phiếu, mặc dù về mặt kỹ thuật, cả hai đề
là những vụ mua nội bộ. Hầu hết các trang web làm việc với giao dịch nội bộ đều
phân biệt giữa giao dịch trên thị trường mở và việc thực hiện quyền chọn.
Không phụ thuộc vào quyết
định bán nội bộ. Quyết định bán cổ phiếu của thành viên trong công ty không được
coi là dấu hiệu dự báo khả năng thay đổi giá chứng khoán như quyết định mua bởi
vì lý do họ bán cổ phiếu thường không liên quan nhiều đến tương lai của công
ty. Điều này đặc biệt đúng với những cổ phiếu công nghệ, là nơi quyền chọn bán
được sử dụng như một cách khuyến khích nhân viên. Thành viên trong công ty thường
bán những cổ phiếu này để phụ thêm vào thu nhập của họ. Tuy vậy khi những cổ
đông quan trọng như chủ tịch hội đồng quản trị hay CEO bán hầu hết cổ phần của
họ, đó là một quyết định rất quan trọng và có thể là dấu hiệu của sự giảm giá cổ phiếu.
Tóm lại, làm theo quyết định
mua của người trong công ty đã được chứng minh là một trong những chiến lược hiệu
quả nhất, bất chấp là phương pháp đầu tư nào. Ít nhất nó cũng cung cấp sự hiểu
biết có giá trị về quyết định của ban quản lý và thái độ của họ đối với kết quả
hoạt động trong tương lai của cổ phiếu.
CÁC CHIẾN LƯỢC KẾT HỢP
Dưới đây là một số chiến
lược đầu tư kết hợp thứ yếu chúng tôi liệt kê vào đây để hoàn thiện thêm cuốn
sách.
Chiến lược mua và giữ
Chiến lược mua và giữ có
nghĩa là bạn xây dựng một danh mục đầu tư cổ phiếu và giữ chúng trong nhiều
năm, bỏ qua những biến động của thị trường. Trong lịch sử, cổ phiếu tăng từ 10
tới 14 phần trăm hàng năm trong vòng 50 năm qua, vì thế lý thuyết là nếu bạn
mua được những cổ phiếu tốt và giữ chúng, bạn sẽ có thể kiếm được từ 10 đến 14
phần trăm mỗi năm theo thời gian. Điều này có thể đúng. Tuy vậy, bạn có thể
tăng doanh thu lên đáng kể nếu bạn giữ vai trò chủ động hơn trong các vụ đầu tư
và có thời gian và sự kiên định với chiến lược hay phương pháp đầu tư của bạn.
Nếu bạn trung thành với
chiến lược mua và giữ, bạn cần phải dành thời gian và nỗ lực cho quá trình lựa
chọn cổ phiếu để chắc chắn rằng bạn có những cổ phiếu ổn định, vững chắc có triển
vọng tăng trưởng trong dài hạn tốt và bạn theo kịp với tiến triển của chúng.
Ngược với suy nghĩ là chiến lược mua và giữ không chứa đựng bất kỳ rủi ro nào,
nhưng thực tế thì vẫn tồn tại rủi ro phá sản nếu bạn lựa chọn sai lầm. Hoặc đôi
khi thậm chí bạn có lựa chọn thông minh, bạn vẫn thất bại. Một trong những blue
chip trong thập nhiên 1950 “Nifty Fifty” là Polaroid Corporation (PRD). Nhưng tới
tháng 10 năm 2001, Polaroid đã đệ đơn phá sản theo Chương 11, khi đó blue chip
này được bán với giá 0. 28 đô la một cổ phiếu.
Phương pháp đầu tư Dow và Dogs of the Dow
Phương pháp đầu tư Dow là
một chiến lược máy móc đơn giản. Từ lâu, phương pháp đầu tư này đã không còn phổ
biến nữa. Bất kỳ chiến lược đầu tư Dow nào cũng đều bắt đầu với một danh sách
30 cổ phiếu tạo nên Chỉ số trung bình ngành công nghiệp Dow Jones mà bạn có thể
tìm thấy trong một số trang web. Sử dụng cách tiếp cận Dogs of the Dow (còn gọi
là 10 cổ phiếu có mức sinh lợi cao), bạn sẽ mua 10 cổ phiếu có mức sinh lợi cổ
tức cao nhất (hoặc phần trăm sinh lợi) vào thời điểm đầu năm và giữ chúng trong
vòng một năm. Cuối năm, bạn sẽ điều chỉnh danh mục đầu tư của bạn để bán những
cổ phiếu không còn nằm trong danh sách 10 cổ phiếu có Mức sinh lợi cao của năm
mới nữa và thay thế chúng bằng những cổ phiếu mới trong danh sách. Lý thuyết đằng
sau chiến lược này đó là các cổ phiếu Dow với mức sinh lợi cao nhất đến một mức
nào đó sẽ bị “hạ bệ” và vì thế sẽ được định giá dưới giá trị.
Sự biến đổi trong chiến
lược đầu tư Dow đó là chiến lượng “Đánh bại Dow 5” có mức sinh lợi cao/giá thấp
được Michael B. O’Higgins mô tả trong Beating the Dow (New York:
Harperbusiness, chỉnh sửa và cập nhật tháng 3 năm 2000). Theo chiến lược này, bạn
mua năm cổ phiếu rẻ nhất trong danh sách 10 cổ phiếu mức sinh lợi xao (Chiến lược
này còn được biết tới với tên gọi Flying 5). Motley Fool đã phổ biến sự biến đổi
trong Flying 5, được gọi là Foolish Four, có sử dụng một tỉ số thủ tục trong
kinh doanh để lựa chọn ra bốn cổ phiếu xoay chuyển tình thế. Từ lâu Fool đã
không còn ủng hộ bất kỳ chiến lượng Dow nào như một chiến lược có mục tiêu
chung nữa, nhưng “nó có thể có giá trị trong tài khoảng nghỉ hưu đa dạng hoá
nơi mà thuế không phài là một vấn đề”. MSN/CNBC (www.moneyxural.msn.com/investor) có một nghiên cứu Dogs of Dow trước
khi được xây dựng.
Phương pháp đầu tư trái ngược
Một chiến lược trái ngược
dựa trên sự quan sát mà các nhà đầu tư có xu hướng phản ánh quá mạnh mẽ trước cả
tin tốt và tin xấu. Phản ứng quá mạnh mẽ với tin tốt tạo ra một thị trường quá
lạc quan, mà theo lời của Alan Greenspan, thì thị trường bị ngập với “sự đầy đặn
bất hợp lý”. Hậu quả là, thị trường đẩy giá lên tới mức vượt quá giá trị và thị
trường thường được mở rộng thái quá. Phản ứng quá mạnh mẽ trước tin xấu mang đến
một bầu trời ảm đạm và các nhà đầu tư rút lui khỏi đường biên của họ và trờ đợi
những con gấu quay trở lại hang động của họ.
Bởi vì họ tin rằng tất cả
những người khác cũng phản ứng thái quá như họ, đặc biệt là tại cực độ của thị
trường, các nhà đầu tư trái ngược đi ngược lại với tâm lý đang thịnh hành. Khi
những người khác ra sức mua vào, thì những nhà đầu tư này lặng lẽ bán ra; còn
khi những nhà đầu tư khác bán tống bán tháo cổ phiếu thì các nhà đầu tư này kiếm
được những món hời (Theo nhiều cách, các nhà đầu tư giá trị là một nhà đầu tư
trái ngược). Những nhà đầu tư trái ngược tin rằng những cơ hội tốt nhất đén
trong suốt giai đoạn cực độ thị trường: tại đỉnh của một thị trường bán giá lên
mạnh mẽ và tại đáy của thị trường giá xuống.
Phương pháp đầu tư trái
ngược đòi hỏi phải có niềm tin đầu tư rất lớn bởi vì bạn sẽ phải chiến đầu chống
lại xu hướng chung đang thịnh hành trên thị trường. Bạn phải rất chắc chắn về bản
thân mình cũng như phán xét của mình để trở thành một nhà đầu tư trái ngược
thành công.
Phương pháp đầu tư trực tiếp (DSPs và DRIPs)
Đầu tư trực tiếp là cách
thức mua cổ phiếu trực tiếp từ một công ty với chi phí giao dịch tương đối thấp.
Nó không phải là một chiến lược hay một phương thức nhưng là một cách thức để
xây dựng danh mục đầu tư thông qua khoản đóng góp hàng tháng nhỏ. Đầu tư trực
tiếp được thực hiện thông qua kế hoạch mua cổ phiếu trực tiếp (DSPs) và kế hoạch
tái đầu tư cổ tức (DRIPs).
Để mua cổ phiếu trực tiếp
từ một công ty, trước hết công ty phải có một kế hoạch mua cổ phiếu trực tiếp,
thường do ngân hàng quản lý. Ví dụ như, IBM có kế hoạch cho phép đầu tư ban đầu
500 đô la và 50 đô la hàng tháng sau đó (Bạn có thể không cần đóng khoản tiền tối
thiểu 500 đô la bạn ghi nợ hàng tháng vào tài khoản ngân hàng của mình). Đối với
những công ty trả cổ tức, DSP thường bao gồm cả DRIP, tự động tái đầu tư cổ tức
vào cổ phiếu của một công ty.
Đầu tư trực tiếp là cách
rất tốt để xây dựng một danh mục đầu tư không cần nhiều vốn. Với phương pháp
này, bạn có thể tận dụng phép trung bình hóa chi phí đầu tư để giảm bớt chi phí
đóng hàng tháng. (Về lý thuyết, trung bình hóa chi phí đầu tư sẽ tạo sự ổn định
cho tình trạng biến động giá cổ phiếu thông qua các vụ mua bán thường xuyên
trong một khoảng thời gian cố định). Tuy nhiên, phương pháp này có một bất lợi
là bạn phải có kế hoạch mới cho mỗi công ty có cổ phiếu mà bạn muốn sở hữu.
Mục đích của chương này
là giới thiệu cho bạn một số phương pháp đầu tư phụ trợ cho các phương pháp đầu
tư chính. Hãy luôn ghi nhớ rằng các phương pháp này được gọi là “thứ yếu” vì lý
do nó không phải là sự lựa chọn đầu tiên của hàng triệu triệu các nhà đầu tư
trên khắp thế giới. Hiển nhiên là nếu một phương pháp đầu tư không được nhiều
người sử dụng, nó sẽ không thể tạo ra lực đẩy tăng tốc cho danh mục cổ phiếu mà
nhà đầu tư lựa chọn. Tuy nhiên, các phương pháp thiết yếu này vẫn được sử dụng
dù chỉ dừng lại ở mức khiêm tốn.
Và nếu có bất kỳ phương
pháp nào trong số đó làm khơi dậy tính tò mò của bạn, hãy thử nghiên cứu sâu
thêm xem sao.
CHƯƠNG 10. Giới thiệu một số chiến lược
đầu tư nâng cao
Các nhà đầu tư giàu kinh
nghiệm thường sử dụng những chiến lược nâng cao để thực hiện mục tiêu đầu tư của
họ. Và để đáp ứng nhu cầu thị trường, ngày càng có nhiều chiến lược mới xuất hiện.
Để bạn đọc thêm hứng thú, chúng tôi sẽ giới thiệu bốn chiến lược nâng cao phổ
biến nhất hiện nay:
Short-selling (Bán khống): Một chiến lược có nhiều rủi ro, trong đó nhà đầu tư tận
dụng lợi thế mặt trái của thị trường.
Đầu tư thị trường trung lập: Một chiến lược trung lập hoá những bước thăng trầm của thị
trường.
Giao dịch quyền chọn: Một chiến lược có thể sử dụng để đầu cơ, tự bảo hiểm hoặc thu
thêm lợi.
Đầu tư toàn cầu: Một chiến lược được dùng với mục đích đa dạng hoá nền kinh tế
toàn cầu.
Những chiến lược này rất
phức tạp và tương đối tinh vi, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ mới mang lại hiệu quả.
Mục đích của chúng tôi trong chương này chỉ đơn giản là giới thiệu ngắn gọn từng
chiến lược để bạn có thể nắm sơ lược và có bước đệm khởi đầu nếu muốn đi xa hơn
với một trong những chiến lược này.
SHORT SELLING: ĐẶT CƯỢC VÀO MẶT TRÁI CỦA THỊ TRƯỜNG
Short selling được sử dụng
khi các nhà đầu tư tin rằng cổ phiếu đang được định giá quá cao. Bạn bán cổ phiếu
mượn từ nhà môi giới tại mức giá hiện tại và chờ đợi nó tụt giá. Khi mọi chuyện
diễn ra theo đúng dự đoán, bạn “giữ vững vị thế” bằng việc mua lại cổ phiếu ở mức
giá thấp hơn, rồi trả lượng cổ phiếu đó lại cho người môi giới và “đút túi” phần
chênh lệch giữa giá bán và giá mua lại, có trừ đi phần chi phí trả cho người
môi giới vì đã vay cổ phiếu của họ.
Có những chuyên gia bán
khống mà toàn bộ chiến lược của họ chỉ là bán khống cổ phiếu chứ không phải giữ
vị thế trong một thời gian dài. Được sử dụng như một chiến lược đầu tư cơ bản,
short-selling chứa đựng rủi ro cực kỳ lớn do khả năng thua lỗ là vô kể. Ví dụ,
giả sử bạn mua một cổ phiếu với giá 10 đô la và hi vọng giá cổ phiếu đó sẽ
tăng. Nếu bạn dự đoán sai, số tiền bạn thua lỗ tối đa chỉ là khoảng 10 đô la một
cổ phiếu. Nhưng nếu bạn bán khống cổ phiếu với giá 10 đô la với hi vọng giá của
nó sẽ giảm và khi bạn sai lầm, phần lỗ của bạn là vô kể. Bạn bắt buộc phải mua
lại cổ phiếu ở mức giá nào đó để giao lại cho người môi giới. Nếu mua lại ở mức
giá 30 đô la, bạn sẽ bị mất 20 đô la một cổ phiếu. Nhưng nếu phải mua lại với mức
giá 150 đô la, thì có nghĩa là bạn sẽ bị mất 140 đô la/cổ phiếu. Khả năng thua
lỗ là vô kể bởi vì trên lý thuyết, mức tăng trưởng của giá cổ phiếu là không giới
hạn. Có thể, bạn sẽ nghĩ rằng bạn sẽ
nhanh chóng bảo vệ vị thế của mình ngay khi giá cổ phiếu tăng nhưng yếu tố đẩy
vấn đề đi quá xa chính là lãi suất bán khống . Nếu lãi suất bán khống cao và cổ
phiếu xoay vòng rồi đảo chiều, chính người bán khống sẽ trở thành tác nhân đẩy
giá cổ phiếu lên cao hơn (và thường nhanh hơn) bởi vì họ phải cạnh tranh để giữ
vững vị thế của mình. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn bởi thực tế nếu những
nhà đầu tư sử dụng chiến lược này tin rằng cổ phiếu bán với giá 10 đô la là hợp
lý, sẽ có nhiều nhà đầu tư tin rằng mức giá 15 đô la hoặc 20 đô la còn tốt hơn
nữa và vị thế ngắn tiếp tục tăng ngay cả khi cổ phiếu hồi phục trở lại. Khi xu
hướng này trở nên rõ ràng, lúc đó, cuộc chiến giữ vị thế bắt đầu diễn ra.
Short-selling có thể áp dụng
cho bất kỳ phương pháp đầu tư nào. Bạn có thể xây dựng một danh mục đầu tư
phòng ngừa tăng trưởng bằng cách tìm kiếm những cổ phiếu có mức tăng trưởng thấp
hoặc bán khống những cổ phiếu có khả năng tăng tốc đang dần xuống dốc. Bạn cũng
có thể xây dựng một danh mục phòng ngừa giá trị bằng cách bán khống những cổ
phiếu được đánh giá quá cao.
Tuy vậy, chúng tôi phải
nói rõ rằng nền tảng của chiến lược bán khống cổ phiếu là một phương pháp vô
cùng nguy hiểm và chỉ mang lại hiểu quả cao nhất cho các chuyên gia. Các nhà đầu
tư cá nhân có thể tìm thấy chiến lược phù hợp cho mình khi kết hợp chiến lược
bán khống với chiến lược thị trường trung lập hoặc mua một quyền chọn đối với cổ
phiếu mà bạn hi vọng sẽ giảm giá.
Lời khuyên để thành công trong chiến lược bán khống
Hãy cẩn thận: Chiến lược
bán khống cổ phiếu không phải là chiến lược nên sử dụng thường xuyên. Chỉ sử dụng
chiến lược này khi bạn đã sẵn sàng chịu rủi ro lớn.
Tự bảo vệ mình bằng các
điểm dừng lỗ: Sử dụng các điểm dừng lỗ để điều chỉnh hướng đi nếu có sai lầm.
Kiên định: Kiên định là
phẩm chất rất quan trọng trong chiến lược đầu tư này bởi vì khả năng thua lỗ của
nó là rất lớn.
CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ THỊ TRƯỜNG TRUNG LẬP: BẢO VỆ ĐIỂM YẾU
CỦA BẠN
Chiến lược đầu tư thị trường
trung lập là một cách quản lý rủi ro. Chiến lược này có tác dụng bảo vệ bạn trước
biến động của thị trường bằng cách đầu tư đồng thời vào cả trường vị và đoản vị
hoặc bằng cách sử dụng quyền lựa chọn hoặc quỹ chỉ số hoặc quỹ tự bảo hiểm.
Một danh mục đầu tư thị
trường trung lập bao gồm những trường vị cho kết quả hoạt động tốt nếu thị trường
biến động theo chiều hướng xấu. Theo lý thuyết, nếu thị trường hoạt động tốt, bạn
sẽ thu về lợi nhuận nhờ trường vị. Nếu thị trường hoạt động kém hiệu quả, bạn sẽ
kiếm tiền nhờ đoản vị. Nói cách khác, bạn sẽ hoạt động theo phương châm: nếu thị
trường lên cao, tôi muốn sở hữu cổ phiếu; còn nếu thị trường hoạt động kém hiệu
quả, tôi muốn bán khống những cổ phiếu này. Tất nhiên, bạn không biết thị trường
sẽ biến đổi theo chiều hướng nào nhưng giả sử nếu bạn tin rằng có tới 70% khả
năng thị trường sẽ tăng trưởng, khi đó, bạn sẽ đầu tư 70% vào trường vị và 30%
vào đoản vị.
Bạn có quyền lựa chọn. Nếu
phương thức bán khống không hấp dẫn, bạn có thể đầu tư 30% danh mục đầu tư của
mình vào những cổ phiếu an toàn như thực phẩm hay dược phẩm – đây là những cổ
phiếu vẫn có thể hoạt động tốt trong một nền kinh tế ảm đạm. Mục đích của việc
làm này là bảo vệ bạn trước xu hướng ngược lại để sao cho nếu giả thuyết của bạn
là sai, bạn vẫn an toàn. Nói cách khác, bạn sẽ trung lập trên thị trường.
Bạn phải lựa chọn cổ phiếu
dựa trên tình trạng hiện tại của nền kinh tế. Ví dụ như, tình trạng ảm đạm kéo
dài suốt mùa thu năm 2001 đã tạo ra một môi trường lãi suất thấp trong đó cổ
phiếu xây dựng và cổ phiếu nhà ở vẫn hoạt động rất hiệu quả và hầu hết các nhà
đầu tư đều đổ dồn vào những cổ phiếu này. Những nhà đầu tư bán khống cổ phiếu
như Merrill Lynch hay Charles Schwab sẽ hiểu rằng tình trạng suy giảm thị trường
có thể khiến lãi suất sụt giảm hơn nữa, vì thế họ vẫn có thể kiếm được tiền nhờ
vị thế ngắn và những cổ phiếu nhà ở sẽ giữ vị thế đó cho họ. Nhưng xét đến
cùng, mục đích của phương pháp đầu tư thị trường trung lập là nhằm bảo vệ trong
trường hợp bạn gặp rủi ro.
Giao dịch sóng đôi
Đây là chiến lược hơi
khác với chiến lược thị trường trung lập. Bạn mua một cổ phiếu mà bạn kỳ vọng sẽ
tăng giá và bán khống một cổ phiếu khác có quan hệ đối lập với kỳ vọng cơ bản của
bạn. Chứng khoán cặp đôi có thể là những công ty cạnh tranh với nhau: công ty A
có kết quả hoạt động tốt và khiến công ty B sụt giảm giá trị. Ví dụ, nếu bạn
cho rằng thành công của Dell gây bất lợi cho Gateway, bạn sẽ mua cổ phiếu của
Dell và bán khống cổ phiếu của GateWay. Nếu cổ phiếu biến động theo đúng chiều
hướng bạn dự tính – Dell có kết quả hoạt động tốt và Gateway có kết quả hoạt động
tồi - bạn sẽ kiếm được tiền từ cả hai loại cổ phiếu. Trong lúc đó, nếu thị trường
biến động theo chiều hướng xấu, cổ phiếu của Gateway có thể rơi vào tình trạng
cực kỳ khó khăn, tuy nhiên, bạn vẫn an toàn nhờ chiến lược đầu tư của mình.
Bạn cũng có thể tìm kiếm
cổ phiếu sóng đôi bằng cách tìm một cổ phiếu mà bạn kỳ vọng sẽ tăng rồi sau đó
tìm kiếm một công ty sẽ hoạt động không tốt khi mọi thứ biến động theo chiều hướng
bất lợi cho cổ phiếu cơ sở để bán khống. Ví dụ, nếu Intel là cổ phiếu triển vọng
nhất trong những cổ phiếu bạn tìm kiếm, bạn nên mua thêm một cổ phiếu hoạt động
phụ thuộc vào thành công của Intel, Nhờ đó, khi mọi thứ trở nên tồi tệ đối với
Intel, cổ phiếu này cũng có kết quả hoạt động tồi tệ. Giả sử nếu Intel đang phải
đối mặt với đợt giảm doanh thu thì có thể trong một thời gian, công ty sẽ không
mua thêm bất kỳ thiết bị sản xuất con chíp nào nữa. Vì vậy, nếu mua cổ phiếu của
Intel, bạn sẽ muốn bán khống cổ phiếu của công ty cung cấp thiết bị sản xuất
con chíp cho Intel, KLA-Tencor (KLAC).
Thứ bạn tìm kiếm trong
giao dịch sóng đôi đó là hai cổ phiếu hoàn toàn đối lập nhau – cổ phiếu kia
tăng thì cổ phiếu này giảm (Dell/Gateway); hoặc khi một cổ phiếu tăng, thì cổ
phiếu liên quan cũng sẽ tăng (Intel/KLAC). Nếu toàn bộ thị trường rơi vào khủng
hoảng, ít nhất bạn vẫn kiếm được lợi nhuận vì đoản vị đã làm giảm bớt thiệt hại
do trường vị gây ra.
Chiến lược thị trường
trung lập có thể đi kèm với bất kỳ phương thức đầu tư nào. Một nhà đầu tư giá
trị sẽ mua cổ phiếu dưới giá trị và bán khống cổ phiếu vượt quá giá trị. Một
nhà đầu tư tăng trưởng sẽ mua cổ phiếu có tốc độ tăng trưởng cao và bán khống cổ
phiếu có đặc điểm ngược lại. Một nhà đầu tư theo đà tăng trưởng sẽ mua cổ phiếu
chỉ vừa mới bắt đầu quá trình tăng trưởng và bán khống cổ phiếu có xu hướng đi
xuống. Một nhà đầu tư kỹ thuật sẽ mua cổ phiếu có các chỉ dấu biểu đồ phù hợp
và bán khống cổ phiếu có mô hình đồ thị đối lập với chiến lược cơ bản của họ.
Hãy luôn ghi nhớ rằng chiến
lược thị trường trung lập không phải được tạo ra với mục đích đầu tư vào phần yếu
thế hơn mà chỉ là một cách để quản lý rủi ro. Mục tiêu chủ yếu của bán khống
không phải là để kiếm lời mà là bảo vệ bạn trước những biến động của thị trường.
Lời khuyên để thành công trong chiến lược thị trường
trung lập
Nghiên cứu kỹ những cổ
phiếu đoản vị và an toàn: Suy xét mọi khả năng để đảm bảo rằng bạn đã lựa chọn
cặp cổ phiếu sóng đôi hợp lý nhất.
Đảm bảo thời gian: Chiến
lược đầu tư thị trường trung lập đòi hỏi thời gian gần gấp đôi số thời gian
thông thường bạn dành cho quá trình lựa chọn cổ phiếu bởi vì bạn đang tìm kiếm
cả hai cổ phiếu đối ngược nhau. Tôi có thể kiếm tiền bằng cách nào nếu thị trường
tăng trưởng? Tôi có thể bảo vệ mình bằng cách nào nếu thị trường suy giảm? Nếu
bạn không có đủ thời gian nghiên cứu kỹ các cổ phiếu của mình, thì tốt hơn hết
là bạn không nên sử dụng chiến lược đầu tư này.
Coi việc sử dụng quyền chọn
ở các quỹ chỉ số hoặc quyền chọn cổ phiếu như chiến lược tự bảo hiểm: Sử dụng
quyền chọn cổ phiếu để bảo hiểm có thể đỡ tốn kém hơn việc bán khống cổ phiếu
và chắc chắn sẽ hạn chế được rủi ro. Hơn thế nữa, bạn có thể mua một quyền chọn
bán của một quỹ chỉ số làm phương tiện tự bảo hiểm toàn bộ danh mục đầu tư của
mình.
QUYỀN CHỌN: BẢO VỆ NHỮNG VỤ ĐẦU TƯ CỦA BẠN ĐỒNG THỜI
TĂNG THÊM THU NHẬP
Quyền chọn có thể được sử
dụng như một vụ đầu cơ, một cách tự bảo hiểm hay một nguồn tăng thêm doanh thu.
Trong phần này, chúng ta sẽ bàn về quyền chọn cổ phiếu chứ không phải là quyền
chọn tương lai hay hàng hoá.
Giá trị của quyền chọn xuất
phát từ giá trị của cổ phiếu cơ sở (đó là lý do tại sao chúng còn được gọi là cổ
phiếu phái sinh), nhưng giá trị của quyền chọn cũng xuất phát từ chính bản thân
quyền chọn và có thể được giao dịch như cổ phiếu. Đây là một chiến lược phức tạp,
nhưng trong cuốn sách này, chúng ta sẽ giới hạn đề tài thảo luận ở việc sử dụng
quyền chọn như một công cụ tự bảo hiểm hay một nguồn tăng thêm doanh thu. Tuy
nhiên, trước hết, chúng ta hãy cùng điểm qua phần giới thiếu ngắn gọn về quyền
chọn.
Giới thiệu
Quyền chọn cổ phiếu là thỏa
thuận mua hoặc bán 100 cổ phiếu vào một ngày cụ thể nào đó trong tương lai. Nhờ
quyền mua hoặc bán cổ phiếu cơ sở này, bạn sẽ chỉ phải trả một phần
rất nhỏ so với giá cổ phiếu
trong hiện tại. Hãy cùng xem xét ví dụ về hai quyền chọn cổ phiếu của Microsoft
(MSFT).
Đầu tháng 1 năm 2001, giá
cổ phiếu của Mircrosoft là 65 đô la. Nếu bạn cho rằng cổ phiếu của Microsoft sẽ
tăng, bạn có thể mua cổ phiếu này với mức giá hiện tại và chờ đợi xem điều gì sẽ
xảy ra hoặc bạn có thể mua một quyền chọn mua (call option). Vào thời điểm đó,
một quyền chọn mua 65 đô la (tức là quyền chọn mua cổ phiếu của MSFT tại mức
giá 65 đô la) đáo hạn vào tháng 1 năm 2002 có giá khoảng 5 đô la trên một cổ
phiếu. Nếu Microsoft đi theo đúng chiều hướng bạn mong đợi và vượt qua mức 65
đô la trước tháng 1 năm 2002, bạn có thể thực hiện quyền chọn của mình và mua
nó với giá 65 đô la một cổ phiếu (trên thực tế, bạn có thể không cần thực hiện
quyền chọn mua cổ phiếu mà chỉ cần bán quyền chọn vốn đã tăng giá trị). Nếu trước
tháng 1 năm 2002, Microsoft không vượt qua hoặc giảm xuống thấp hơn mức 65 đô
la, quyền chọn của bạn sẽ đáo hạn mà không có giá trị gì, nhưng bạn sẽ chỉ lỗ 5
đô la/cổ phiếu.
Trong khi đó, nếu bạn tin
rằng giá cổ phiếu của Microsoft sẽ giảm, có thể bạn sẽ bán khống số cổ phiếu với
giá 65 đô la và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Nếu bạn phán đoán sai và cổ phiếu
tăng tới 100 đô la, bạn sẽ bị lỗ 35 đô la một cổ phiếu - và sẽ còn lỗ nhiều hơn
nữa nếu cổ phiếu tiếp tục tăng giá. Thay vì chấp nhận rủi ro, bạn có thể mua một
quyền chọn bán 65 đô la vào tháng 12 năm 2001 (một quyền chọn bán cổ phiếu MSFT
tại mức giá 65 đô la) với giá khoảng 3 đô la một cổ phiếu. Nếu bạn dự đoán đúng
và giá cổ phiếu đi xuống, bạn có thể thực hiện quyền chọn của mình, bán cổ phiếu
MSFT với giá 65 đô la và bỏ túi phần chênh lệch giữa giá trước đây và giá hiện
tại thấp hơn (một lần nữa, bạn có thể bán quyền chọn vốn đã tăng giá trị). Nếu
bạn dự đoán sai, cổ phiếu MSFT không giảm giá xuống dưới 65 đô la trước tháng
12 năm 2001, quyền chọn sẽ trở thành vô nghĩa, không có giá trị, nhưng phần
thua lỗ lớn nhất bạn phải gánh chịu chỉ là 3 đô la/cổ phiếu dù giá cổ phiếu
Microsoft có tăng cao đến đâu.
Hãy cùng xem xét ảnh hưởng
của ngày đáo hạn tới giá trị của quyền chọn. Trong ví dụ đầu tiên của
Microsoft, quyền chọn mua với giá 65 đô la trong tháng 1 năm 2002 được bán với
giá 5 đô la. Hãy so sánh con số này với quyền chọn mua 65 đô la trong tháng 1
năm 2004 nhưng được bán với giá 17 đô la. Phần chênh lệch khổng lồ về mặt giá cả
này là do đâu? Bởi vì quyền chọn 5 đô la sẽ không có giá trị gì nếu giá cổ phiếu
của Microsoft không vượt quá mức 65 đô la trong vòng tháng. Với một quyền chọn
hai năm, thời gian là của chúng ta. Gần như chắc chắn rằng cổ phiếu của
Microsoft sẽ vượt qua mức giá trên trong thời gian đó. Vì thế, chúng ta sẽ
thanh toán cho quyền chọn trong hai năm chứ không phải chỉ trong ba tháng như
ví dụ ban đầu. Giá trị của một quyền chọn cũng liên quan tới tính trạng tăng
giá đột ngột - mức giá tại đó bạn có thể thực hiện quyền chọn mua cổ phiếu cơ sở
- và có liên quan tới giá hiện tại của bản thân cổ phiếu. Mối quan hệ này được
mô tả là có lãi, hoà vốn và thua lỗ.
Có lãi: so với giá cổ phiếu
hiện tại, giá thực hiện thấp hơn đối với quyền chọn mua và lớn hơn đối với quyền
chọn bán.
Hoà vốn: giá thực hiện
ngang bằng với giá cổ phiếu hiện tại, cho dù đó là quyền chọn bán hay quyền chọn
mua
Lỗ vỗn: so với giá cổ phiếu
hiện tại, giá thực hiện lớn hơn đối với quyền chọn mua và thấp hơn đối với quyền
chọn bán.
Sau đây là ví dụ minh hoạ
về sự khác biệt của quyền chọn mua trong ba tháng cổ phiếu của Microsoft. Cổ
phiếu của công ty này được định giá ở mức 65 đô la vào thời điểm đầu tháng 11;
tất cả những quyền chọn sau đều có ngày đáo hạn vào tháng 1 năm 2002:
Quyền chọn mua có lãi tại
giá 60 đô la: 8,25 đô la Quyền chọn mua hoà vốn tại giá 65 đô la: 5 đô la Quyền
chọn mua lỗ vốn tại giá 70 đô la: 2,5 đô la
Nói cách khác, quyền chọn
mua có lãi và hoà vốn là quyền chọn vẫn còn giá trị cho tới thời điểm hiện tại;
còn quyền chọn lỗ có nghĩa là nó không có giá trị gì nếu thực hiện ngay ngày
hôm nay nhưng trong tương lai nó có thể vẫn có giá trị. Quyền chọn lỗ vốn tốn
ít chi phí hơn nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
Do có yếu tố thời gian, với
giả thuyết giá cổ phiếu cơ sở là không đổi, một quyền chọn luôn giảm giá trị mỗi
ngày. Giống như quả bom thời gian đếm ngược và vào ngày cuối cùng - ngày đáo hạn
- nó sẽ không có giá trị gì nữa trừ khi giá thực hiện thấp hơn (đối với quyền
chọn mua) hoặc cao hơn (đối với quyền chọn bán) so với giá cổ phiếu vào ngày
đáo hạn.
Vì vậy, rủi ro của quyền
chọn chính là cổ phiếu cơ sở phải di chuyển theo đúng hướng bạn mong muốn và nó
phải di chuyển như vậy trong khung thời gian của quyền chọn.
Thêm rủi ro cũng đồng
nghĩa với thêm cơ hội lợi nhuận. Bạn có thể đầu tư với số tiền nhỏ nhưng vẫn có
khả năng sẽ kiếm được khoản lời lớn. Nếu cổ phiếu không đạt được kết quả như kỳ
vọng, tất cả những gì bạn mất là số tiền đã trả cho quyền chọn. Tuy vậy, hãy
luôn ghi nhớ rằng bạn phải luôn chính xác cả về xu hướng cổ phiếu và khung thời
gian.
SỬ DỤNG QUYỀN CHỌN ĐỂ TỰ BẢO HIỂM
Bạn còn nhớ ví dụ
Intel/KLAC chúng tôi đã nhắc đến trong chiến lược thị trường trung lập? Chúng
tôi gợi ý nên mua cổ phiếu của Intel và bán khống cổ phiếu của nhà cung cấp thiết
bị chip cho Intel- KLAC - để tạo ra một vị thế trung lập. Bạn có thể có được vị
thế tương tự với chi phí và rủi ro ít hơn bằng cách mua quyền chọn bán.
Thay vì bán khống cổ phiếu
của KLAC và kỳ vọng giá cổ phiếu của nó sẽ tăng chứ không giảm, bạn có thể tự bảo
vệ mình trước khả năng tệ hại nhất bằng cách mua một quyền chọn bán - một hợp đồng
cho phép bạn bán 100 cổ phiếu của KLAC tại một ngày cụ thể trong tương lai. Ví
dụ như vào ngày 8 tháng 11 năm 2001, KLAC đóng cửa tại mức giá 48,55 đô la. Vào
ngày đó, quyền chọn bán hoà vốn bán 100 cổ phiếu của KLAC tại mức giá 50 đô la
vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày 22 tháng 12 sẽ có giá khoảng 5 đô la một cổ
phiếu (còn quyền chọn bán lỗ vốn ở mức giá 45 đô la sẽ chỉ mất 2,75 đô la).
Ví dụ, nếu cổ phiếu của
KLAC giảm xuống còn 40 đô la trước ngày quyền chọn 50 đô la của bạn đáo hạn một
ngày, bạn sẽ thu về 10 đô la sau khi bán quyền chọn (trên lý thuyết, bạn có thể
thực hiện quyền chọn bán 100 cổ phiếu KLAC tại mức giá 50 đô la và ngay lập tức
giữ được vị thế của mình cho dù giá cổ phiếu KLAC có giảm tới mức nào và bỏ túi
phần chênh lệch giữa hai giá).
Nếu giá cổ phiếu KLAC tăng
chứ không giảm trong suốt giai đoạn đó, quyền chọn sẽ đáo hạn mà không có giá
trị gì và bạn sẽ chỉ bị lỗ phần chi phí bỏ ra để mua quyền chọn - 5 đô la một cổ
phiếu.
Rủi ro rất thấp của quyền
chọn khiến phương pháp này trở thành một biện pháp tự bảo vệ lý tưởng cho các đầu
tư cá nhân trước những đợt suy thoái thị trường trong tương lai. Như đã nói ở
phần trước, rủi ro của bán khống là vô tận, nhưng với quyền chọn, phần thua lỗ
lớn nhất chỉ là chi phí bạn bỏ ra để mua quyền chọn.
Lời khuyên để thành công khi tự bảo vệ bằng quyền chọn:
Sử dụng hàng rào bảo vệ
trực tiếp cho cổ phiếu của bạn: Vị thế bảo vệ trực tiếp nhất đó là mua một quyền
chọn bán những cổ phiếu của chính mình. Ví dụ, nếu bạn sở hữu cổ phiếu của
Microsoft, một quyền chọn bán hợp lý sẽ trở thành hàng rào bảo vệ bạn trước
nguy cơ thua lỗ khi đầu tư vào cổ phiếu này.
Tự bảo vệ toàn bộ danh
muc đầu tư của bạn với một quyền chọn chỉ số: Quyền chọn chỉ số có thể được sử
dụng để bảo vệ toàn bộ danh mục đầu tư của bạn. Để làm được điều này, bạn có thể
mua quyền bán OEX (trong danh mục chỉ số S&P 100). Nếu toàn bộ thị trường
suy giảm, số tiền mà bạn có thể kiếm được nhờ quyền chọn bán sẽ giúp bạn bù lỗ
số tiền thiệt hại trong danh mục đầu tư thông thường.
Giảm thiểu chi phí: Cố gắng
xây dựng một vị thế tự bảo vệ với mức chi phí tối thiểu. Có rất nhiều chiến lược
quyền chọn phức tạp không tốn kém. Trong cuốn sách này, chúng tôi không đề cập
đến vấn đề này nhưng nếu bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về công cụ tự bảo hiểm này,
bạn nên nghiên cứu kỹ hơn qua các nguồn tham khảo.
Bán quyền chọn mua
Bán quyền chọn mua là một
chiến lược phổ biến đối với những ai muốn có thêm doanh thu. Chiến lược chỉ đơn
giản là bán quyền chọn mua những cổ phiếu mà bạn sở hữu. Nếu bạn cho rằng một
trong những cổ phiếu bạn đang nắm giữ chắc chắn không có thay đổi gì đáng kể
trong vòng ba tháng tới, bạn có thể bán một quyền chọn mua, ví dụ như ở mức 3
đô la một cổ phiếu. Nếu bạn dự đoán đúng và giá cổ phiếu vẫn vậy, bạn bỏ túi 3
đô la và tiếp tục giữ cổ phiếu, cộng với phần cổ tức có thể được thanh toán. Nếu
giá cổ phiếu tăng cao hơn, người sở hữu quyền chọn có thể sẽ thu hồi số cổ phiếu
này nhưng bạn vẫn có được giá thực hiện của cổ phiếu và khoản tiền thu từ việc
bán quyền chọn, 3 đô la một cổ phiếu.
Tuy có hạn chế, nhưng bán
quyền chọn có thể giúp bạn kiếm thêm doanh thu và là một chiến lược đặc biệt hiệu
quả trên những thị trường ít biến động hoặc đối với những nhà đầu tư quan tâm đến
doanh thu.
Lời khuyên để thành công trong chiến lược bán quyền chọn
mua
Kiên trì với những cổ phiếu
được trả cổ tức: Chiến lược bán quyền chọn mua sẽ đem lại kết quả tốt nhất cho
những cổ phiếu được trả cổ tức.
Tránh những cổ phiếu có
khả năng biến động cao: Trước hết, những cổ phiếu có khả năng biến động cao hiếm
khi được trả cổ tức. Thứ hai, rất khó để kiếm lợi từ những cổ phiếu có mức độ
biến động quá cao.
Nghiên cứu cổ phiếu của bạn
kỹ lưỡng để tối đa hoá lợi nhuận: Để tối đa hoá lợi nhuận, hãy tìm những cổ phiếu
có phần lãi quyền chọn tốt và được trả cổ tức.
Giao dịch quyền chọn rất
phức tạp và là chủ đề quen thuộc trong nhiều cuốn cẩm nang chứng khoán. Bạn có
thể tìm hiểu sâu hơn về quyền chọn từ nguồn này. Hoặc, nếu muốn có cái nhìn tổng
thế, ngắn gọn, bạn có thể truy cập vào trang web www.cboe.com của Trung tâp Nghiên cứu Quyền chọn
Chicago.
CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ TOÀN CẦU: ĐẦU TƯ VƯỢT BIÊN GIỚI
Mục tiêu của chiến lược đầu
tư toàn cầu là đa dạng hoá danh mục đầu tư trên khắp các nền kinh tế toàn cầu.
Nhờ đó, bạn có thể tận dụng được lợi thế của những nền kinh tế thịnh vượng nhất,
đồng thời giảm thiểu rủi ro thị trường trên quy mô rộng lớn hơn. Đầu tư toàn cầu
không phải là một trò chơi có tổng bằng không. Trong một giai đoạn suy thoái nền
kinh tế toàn cầu, có thể sẽ khó tìm được nền kinh tế nào hoạt động hiệu quả
nhưng trong điều kiện thông thường, luôn luôn có một số nền kinh tế hoạt động tốt
hơn những nền kinh tế khác.
Có nghĩa là, đầu tư toàn
cầu chỉ đơn giản là một cấp bậc khác của chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới,
do đó,m chúng ta có thể kết hợp nó với một phương pháp đầu tư thông thường nào
đó. Thay vì bắt đầu với cấp bậc ngành kinh tế, trước hết bạn tìm kiếm những quốc
gia có nền kinh tế hoạt động tốt nhất hoặc có tốc độ tăng trưởng cao nhất, sau
đó mới đánh giá ngành hoặc các cổ phiếu cụ thể. Cách dễ dàng nhất để một nhà đầu
tư cá nhân có thể tham gia sân chơi toàn cầu là thông qua ADR (Quỹ thu giữ tài
sản Mỹ), quỹ đóng quốc gia hoặc quỹ ETF. Những công cụ này dễ giao dịch hơn so
với phương pháp đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu nước ngoài và thường không có hoặc
có rất ít rủi ro. Ngoài ra, nếu muốn, bạn có thể đầu tư thông qua hàng trăm quỹ
tương hỗ toàn cầu khác.
Mạng Internet góp phần
đơn giản hoá nhiệm vụ theo kịp nền kinh tế toàn cầu và đẩy nhanh quá trình tiếp
cận với các phương tiện đầu tư trên quy mô rộng. Tất cả các cổ phiếu trên thế
giới đều luôn trong tình trạng sẵn sàng giao dịch thông qua các nhà môi giói trực
tuyến.
ADRs: Các quỹ thu giữ tài sản Mỹ
Quỹ thu giữ tài sản Mỹ
(ADRs) là cách đơn giản nhất để đầu tư vào một công ty nước ngoài bởi vì bạn gần
như không gặp phải rắc rối nào của giao dịch qua biên giới. Một ADR đại diện
cho một công ty nước ngoài giao dịch công khai như một cổ phiếu đại diện cho một
công ty của Mỹ. ADR, do một ngân hàng Mỹ bảo lãnh, là bằng chứng (dưới dạng một
phiếu thu) rằng cổ phiếu của công ty nước ngoài này đã thực sự tạo được niềm
tin trong một ngân hàng ở quốc gia khác. Mua ADR có thể làm giảm nhưng không
hoàn toàn loại bỏ các rủi ro do biến động tiền tệ gây ra.
ADR đầu tiên do ngân hàng
J. P. Morgan tạo ra năm 1927 cho phép người Mỹ đầu tư vào hệ thống bán lẻ
Selfridge của Anh. Hiện nay, nhóm ADR hoạt động tại Mỹ gồm có Tập đoàn Nokia của
Phần Lan, NEC của Nhật Bản, Deutsche Telekom của Đức và Vodafone của Anh. Trên
thị trường cổ phiếu Mỹ, có hơn 1600 chứng chỉ tiền gửi ADR từ hơn 60 quốc gia
được niêm yết. Nơi lý tưởng nhất để tìm những cổ phiếu này đó là truy cập vào
trang web của Ngân hàng New York. Trang web này cung cấp công cụ tìm kiếm tất cả
các ADR được niêm yết trên thị trường Chứng khoán New York, ASE và Nasdaq.
Quỹ: Quỹ ETF, quỹ quốc gia, quỹ toàn cầu
Mua một quỹ để đầu tư vào
những cổ phiếu quốc tế cũng là một cách mở rộng danh mục đầu tư ra toàn cầu. Bạn
có thể thực hiện đầu tư thông qua ba loại hình quỹ: Quỹ đóng, quỹ mở và quỹ ETF
(Giao dịch trao đổi).
Quỹ đóng
Quỹ đóng giao dịch giống
như những cổ phiếu của lần phát hành ra công chúng đầu tiên và có số lượng hạn
chế. Cổ phiếu được giao dịch tại mức giá cao hơn hoặc đã chiết khấu so với giá
trị tài sản ròng của quỹ, tức là tăng hoặc giảm trong một ngày dựa trên cung hoặc
cầu của người mua và người bán. Một số nhà đầu tư giao dịch quỹ đóng bằng cách
mua quỹ khi mức chiết khấu đạt tối đa và bán chúng khi mức chiết khấu là tối
thiểu.
Giá
trị tài sản thuần
Giá trị tài sản thuần
(NAV) là giá trị của cổ phiếu cơ sở trong một quỹ. Nó được tính bằng cách lấy tổng
tài sản của quỹ trừ đi khoản phải trả và chia con số này cho số cổ phiếu cơ sở
đã phát hành.
Quỹ đóng có thể bị hạn chế
trong một quốc gia hay khu vực nào đó hoặc về bản chất, chúng có thể là toàn cầu
khi xuất hiện tình huống đầu tư vào những cổ phiếu của các quốc gia khác nhau.
Quỹ đóng được giao dịch lần đầu tiên trên thị trường Chứng khoán New York. Để
được hướng dẫn về quỹ đóng, bạn có thể truy cập địa chỉ www.closed-endfunds.com.
Quỹ mở
Chúng ta thường cho rằng
quỹ mở giống quỹ tương hỗ, được giao dịch một lần một ngày tại mức giá trị tài
sản thuần của chính bản thân quỹ đó. Về bản chất, khoản tiền đặt vào một quỹ mở
là không hạn chế, trừ khi bản thân quỹ đặt ra giới hạn một số lượng cổ phiếu nhất
định. Điểm then chốt chính là ở tình trạng khó xử này. Quỹ tương hỗ thành công
sẽ thu hút một lượng tiền đầu tư cực kỳ lớn nhưng lại khiến nhà quản lý gặp khó
khăn khi tiếp tục công việc của họ.
Nói chung, quỹ toàn cầu mở
đầu tư vào cổ phiếu trên toàn cầu hoặc tập trung vào một số khu vực cụ thể như
Châu Âu, châu Mỹ La tinh hoặc Châu Á và chỉ có một số ít quỹ đầu tư vào cổ phiếu
của một quốc gia cụ thể, như Nhật Bản hoặc Canada. Hầu như, các quỹ tương hỗ
gia đình đều chào bán nhiều quỹ toàn cầu mở khác nhau cũng như các tài liệu
tham khảo về phương pháp đầu tư quỹ tương hỗ.
Quỹ trao đổi giao dịch (ETF)
Một quỹ giao dịch trao đổi
(ETF) là một rổ cổ phiếu cố định được giao dịch trên thị trường cổ phiếu như một
cổ phiếu (xem Chương 4 để biết thêm chi tiết). Một quỹ ETF toàn cầu có thể đại
diện cho cổ phiếu của một quốc gia hoặc một khu vực cụ thể hoặc một ngành công
nghiệp cụ thể ở một quốc gia hoặc một khu vực nào đó. Giá trị của một quỹ ETF
được xác định liên tục bằng cách tính toán giá trị tài sản thuần thực tế của
ETF (tức, dựa trên giá trị thay đổi của cổ phiếu tạo nên quỹ ETF).
Tại thời điểm này, số lượng
quỹ ETF toàn cầu còn tương đối nhỏ, nhưng tình hình chắc chắn sẽ thay đổi trong
tương lai. Barclay hiện tại chào bán hơn 28 quỹ ETF khu vực và quốc gia thông
qua trang web iShares (www.ishare.com); Merrill Lynch chào bán trên trang web
www.holder.com; và trang www.streettracks.com chào bán quỹ chỉ số Titan toàn cầu (DJGT).
Với các quỹ toàn cầu, dù
là quỹ đóng, quỹ mở hay quỹ ETF, cổ phiếu được lựa chọn chính là một bộ phận
tiêu biểu của nền kinh tế của một quốc gia hay một khu vực hay một ngành tiêu
biểu trong một quốc gia hay khu vực. Sự khác biệt giữa những cổ phiếu toàn cầu
này rất quan trọng nhưng thường khó phát hiện. Bảng 10-1 có thể giúp bạn phát
hiện điểm khác biệt dễ dànghơn.
Lời
khuyên để thành công trong chiến lược đầu tư toàn cầu
Theo dõi xu hướng: Theo
dõi biểu đồ quỹ ETF để xem khi nào nên hành động (các chuyên gia đọc biểu đồ
thường sử dụng công cụ trên trang web SmartMoney.com).
Áp dụng chiến lược đầu tư
của bạn: Cho dù bạn mua quỹ đóng, quỹ mở hay quỹ ETF, hãy đầu tư vào chúng như
đầu tư vào cổ phiếu nội địa có sử dụng phương thức đầu tư cụ thể. Ví dụ, bạn
quyết định sẽ đầu tư vào quốc gia nào, hãy lựa chọn một ADR theo phương pháp đầu
tư tương tự như phương pháp bạn sử dụng để lựa chọn cổ phiếu nội địa. Đối với
quỹ quốc gia hay quỹ ETF, nhà đầu tư tăng trưởng nên tìm kiếm nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất; một nhà đầu tư giá trị có thể tìm kiếm những quỹ giá
hời tại một quố gia có thể đang trong giai đoạn khó khăn. Một nhà quản lý quỹ
thậm chí từng nói anh ta tìm kiếm những món hời quỹ ở những quốc gia vừa trải
qua thảm hoạ như động đất, bão lụt, bạo loạn chính trị hoặc mất giá tiền tệ Một
nhà đầu tư theo đà tăng trưởng sẽ tìm kiếm quỹ có tốc độ di chuyển nhanh nhất.
Một nhà phân tích kỹ thuật đơn giản sẽ so sách đồ thị của các quỹ để xem quỹ
nào có mô hình tốt nhất.
Các chiến lược nâng cao
thuộc phạm vi của nhà đầu tư cao cấp. Bảng tống kết tóm lược trong chương này
chỉ đơn giản là nhằm mục đích mang đến cho bạn bí quyết nhỏ về thứ gì đang sẵn
sàng. Chúng tôi khuyên bạn không nên theo đuổi một chiến lược nào mà không
nghiên cứu chúng sâu hơn. Chúng tôi cũng không khẳng định đây là tất cả những
chiến lược nâng cao dành cho một nhà đầu tư tinh tế. Có nhiều hơn thế, nhiều
chiến lược mới, vẫn tiếp tục được hình thành để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu
tư và sự thay đổi của thị trường. Nói chung, để thông thạo bất kỳ phương thức đầu
tư nào, việc nghiên cứu kỹ lưỡng và lyện tập là rất cần thiết. Bạn có thể bắt đầu
với những thông tin miễn phí sẵn có trên Internet, sau đó tiếp tục tìm hiểu sâu
hơn bằng các buổi thảo luận và những cuốn sách có liên quan.
LỜI BẠT
Theo lời của Alan
Greenspan, trong suốt 100 năm lịch sử, thị trường đã liên tục trải qua những vụ
mùa bội thu và những nỗi thất vọng bất hợp lý. Câu nói cửa miệng của các nhà đầu
tư luôn là: “Lần này sẽ khác” hoặc “Lần này quy luật sẽ thay đổi”. Trong suốt
giai đoạn bùng nổ kỷ nguyên dotcom khi giá cổ phiếu tăng vọt quá mức so với giá
trị trước đây, các chuyên gia thừa nhận Nền kinh tế Mới. Lợi nhuận và doanh thu
không còn quan trọng nữa. Cướp thị phần hoặc “nhãn quan” là tất cả những gì xảy
ra trong Nền kinh tế Mới.
Nền tảng của thị trường vẫn
rất quan trọng. Các vụ mùa bội thu luôn luôn thay đổi (hoặc đôi khi thay đổi
thái quá), cũng như nỗi thất vọng vậy. Điều chắc chắn duy nhất đó là chúng ta
không bao giờ biết đợt thất vọng hay vụ mùa bội thu sắp tới sẽ như thế nào và sẽ
được gọi là gì. Vì vậy, chúng ta phải chấp nhận và thực hiện một chiến lược đầu
tư và một quá trình sẽ bảo vệ chúng ta ở một mức độ nào đó trước những bất ổn của
thị trường.
Nhiệm vụ của chúng tôi
khi viết cuốn sách này là giúp bạn tìm được một phương thức hoặc chiến lược đầu
tư phù hợp với đặc điểm tính cách của bạn để bạn đi trước những bước thăng trầm
của thị trường. Nếu sau khi đọc xong cuốn sách, bạn nhận ra rằng bạn cần một
chiến lược, nếu bạn nhận ra chính bản thân mình đã sử dụng một hoặc nhiều hơn
những chiến lược hoặc phương thức mà chúng ta đã thảo luận, nếu bạn hiểu nhu cầu
cần có một quy trình có phương pháp để thực hiện chiến lược của bạn - lựa chọn
cổ phiếu, tính toán thời điểm mua vào, bán ra và quản lý danh mục đầu tư - khi
đó, chúng tôi có thể coi như nhiệm vụ của mình đã hoàn thành. Có một chiến lược
đầu tư phù hợp với đặc điểm cá tính cách, bạn sẽ không phải quá lo lắng về sự
xoay vòng của thị trường. Một chiến lược và một quy trình đầu tư được lựa chọn
thông minh, kỹ càng sẽ giúp giảm thiểu mức thua lỗ và tối đa hóa lợi nhuận. Nếu
số người chiến thắng trên thị trường lớn hơn số người thua, nếu bạn là một nhà
đầu tư thành công, có thể nói, chúng tôi đã thực hiện thành công nhiệm vụ đặt
ra.